“Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang”, miền đất địa đầu có quá nhiều điều níu chân lữ khách. Từ danh thắng ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, núi đôi Cô Tiên – Quản Bạ tới đèo Mã Pí Lèng hùng vĩ bên dòng Nho Quế thẳm xanh… đều khiến lòng người ngất ngây, mê đắm. Tuy nhiên, những ai từng lên miền cao nguyên đá đều cảm thấy lòng mình mắc nợ nếu chưa đặt chân tới Lũng Cú, vùng đất cực Bắc của Tổ quốc. Leo lên đỉnh núi Rồng ở độ cao xấp xỉ 1700 m ngắm lá cờ Tổ quốc 54m2 tung bay trong gió thực sự là một nỗi tự hào với những người con đất Việt.
CỘT CỜ - CỰC BẮC - MỐC 428 (bản đồ vệ tinh)
Để chinh phục cực Bắc theo đúng lịch trình vạch sẵn của mùa phượt, sáng 18/7/2013 bốn thầy trò rời Quản Bạ trong cơn mưa tầm tã ngày thứ 2 liên tiếp. Buổi trưa ở Yên Minh bị (được?) chị em người Tày mời rượu đến say mèm, tất cả nằm luôn tại quán tới 3 giờ chiều. Phố Bảng, Sủng Là, Sà Phìn… không dễ bỏ qua, tới được nhà nghỉ Cực Bắc dưới chân cột cờ thì trời đã tối. Một bữa ăn kém chất lượng và cốc cà phê nhạt kết thúc một ngày dài vất vả, chuẩn bị tinh thần cho một ngày mới chắc chắn còn vất vả hơn nhiều.
Một gói mì tôm và 2 quả trứng là tiêu chuẩn bữa sáng của mỗi thành viên, thêm một gói lương khô cho buổi trưa cùng 3 chai nước nhỏ, tất cả vững dạ lên đường. Qua những thông tin tham khảo về Lũng Cú và một ít kinh nghiệm thực tế khi thăm thú vùng biên giới phía Bắc cả đoàn không đi về hướng bản Xéo Lủng - con đường quen thuộc để đi thăm các mốc từ 422 tới 428 - mà vòng qua đường phía Đông để tránh phiền hà, nếu có ai bắt gặp thì cũng nghĩ là khách phượt đang quay về Đồng Văn. Biết đâu ở những chỗ “nhạy cảm”này, người lạ như chúng tôi có thể bị dân quân hay bộ đội biên phòng giữ lại.
Lên xe từ lúc 7h trong một ngày đẹp nắng, cảnh sắc vùng biên và những góc nhìn khác nhau về cột cờ trên con đường bê tông nối từ Cẳng Tằng tới Thèn Pả lấy mất của chúng tôi đúng 60 phút. Rất nhiều ngả rẽ khác nhau của con đường mòn lầy lội khiến khách lạ lạc qua tới mé bản Tả Gia Khâu, phải nhờ tới GPS mới trở lạ iđược “chính đạo” như dự tính. Mười lăm phút sau, hai chiến mã được gửi lại bên ruộng ngô, bốn thầy trò bám theo đường mòn của dân bản hướng về phía… cực.
Sau 20 phút vượt qua con dốc nhỏ bùn dẻo ngậm đế giày, một không gian bao la mở ra trước mắt. Từ sườn núi bên này trông xuống là vực núi sâu hút không thấy dòng Nho Quế, phía bên kia cũng đồi núi trập trùng uốn lượn theo sông. Đang mùa nước đổ của vùng cao nên vực núi cả hai bên đều xanh cây tốt cỏ. Trên những bậc thang ngô thấp thoáng những sắc áo thổ cẩm mải mê với ruộng nương gợi cảm giác thanh bình, dẫu biết rằng biên cương chưa bao giờ hoàn toàn yên ổn. Thêm một quãng đường nữa, sườn dốc có vẻ thoải và thoáng hơn, từ trên cao đã có thể nhìn thấy sông Nho Quế, cựu binh Phan Đức Trọng quyết định hạ sơn ngay từ quãng này để dễ dàng tiếp cận dòng sông. E rằng xuống tới mép sông thì quãng đường gần 2 km còn lại cũng rất khó lường, cây cối cối rậm rạp, chưa chắc đã tìm được lối đi; tới lúc ấy, có leo lên được tới đường mòn thì chắc cũng không đủ thời gian và sức lực để hoàn tất hành trình tới cực, quyết định này lập tức bị huỷ bỏ. Chúng tôi tiếp tục đi men theo đường mòn quanh sườn núi hướng về cực Bắc, lòng chợt vui khi gặp con mương bê tông có nhiều nhánh rẽ để đưa nước tới những đám ruộng bậc thang cuối cùng (hay đầu tiên?) của đất nước.
THỬA RUỘNG ĐẦU TIÊN CỦA TỔ QUỐC
Khe chữ Y bên TQ, dưới khe, GIỮA DÒNG SÔNG NHO QUẾ là CỰC BẮC CỦA TỔ QUỐC
Sau gần 2 tiếng đồng hồ, bốn chúng tôi tiếp cận dòng Nho Quế lúc 11h 45 phút . Sướngnhư Arsimet trong giây phút “ơ – rê – ca” huyền thoại!
Trước ngày lên Lũng Cú, tôi thường mơ tưởng phút giây bốn thầy trò lội ra giữa dòng sông, hét vang nơi cực Bắc chính thức nhưng tới lúc này thì chúng tôi hiểu rằng đó là điều không thể thực hiện được. Bờ sông quãng này cực kỳ hiểm, đá và cây nhoài ra sát mặt sông. Bình thường, sông Nho Quế rất cạn và nước xanh màu ngọc bích, giống như màu nước phổ biến của những dòng sông, con suối bên Cao Bằng. Sau hai ngày mưa lớn, bây giờ Nho Quế có màu vàng nhẹ của nước trà nhạt, nhà máy điện bên Trung Quốc xả lũ nên dòng sông cuộn réo ầm ào, chưa thấy sông đã nghe tiếng nước xô ghềnh đá. Cố gắng men theo bờ đá thêm một quãng nữa về phía Đông Bắc, cả đoàn chấp nhận dừng bước. Lúc này là 11h59 phút và GPS báo toạ độ 23*23’30,3” N, 105*19’16,2” E. Vẫn còn thiếu chừng 3” nữa mới tới vĩ độ Bắc mơ ước. Nhưng thôi, chín bỏ làm mười, tiệm cận được đến thế cũng là điều thoả mãn.
Lương khô mang ra để ổn định bao tử, chai trà xanh không độ cuối cùng giúp tất cả trôi qua một cách ngọt ngào, cả đoàn say sưa tận hưởng “phút giây chiến thắng”, dẫu chưa thật sự trọn vẹn. Đã chuẩn bị sẵn từ trước, tôi mang áo đỏ TGT ra tặng “đồng đội”, tất cả cùng ngất ngây. (Màu áo này của TGT chi dành để tặng cho đệ tử có thành tích đặc biệt trong năm học và mỗi năm chỉ trao một lần duy nhất vào ngày VINH QUY BÁI TỔ nhưng có lẽ những chiếc áo đỏ được trao vào giờ khắc này nơi cực Bắc còn ý nghĩa hơn nhiều). Sau bữa trưa gọn nhẹ, vẫn còn có chút “ấm ức”, Vũ Mạnh Thắng vạch cây bám đá tìm đường cải thiện vị trí. Nghe tiếng hú của cậu từ vách đá bên kia, cả đoàn lại dắt díu nhau “kéo” thêm được mấy chục mét nữa. Tới đây thì gặp vách đá dựng phẳng lì, trơn trượt và gần như thẳng đứng. Cách chỗ chúng tôi đứng chừng 50 m là khe núi hẹp đã định vị trên bản đồ. Chếch về phía Đông một chút, nằm giữa dòng sông chính là CỰC BẮC. Chúng tôi đã NHÌN THẦY, máy ảnh đã GHI LẠI vị trí này một cách rõ ràng. Bấy lâu vẫn thường thắc mắc: vì sao chúng ta không cắm mốc để đánh dấu CỰC BẮC? Câu trả lời bây giờ là KHÔNG THỂ và cũng KHÔNG CẦN THIẾT. Nguyên tắc thuỷ lực của dòng chảy ở khúc quanh này giúp bờ sông phía Nam không bị xói lở và vách đá xám mờ sừng sững ở nơi hiểm trở này sẽ giữ cho mỏm đất biên cương được vẹn toàn.
Cựu binh Phan Đức Trọng bấm GPS lần cuối cùng. Chúng tôi đã tới toạ độ 23*23’32”N, 105*19’18”E trong khi toạ độ CỰC BẮC đo được trên bản đồ vệ tinh là 23*23’33,5” N, 105*19’22,3 E . Điều đó có nghĩa là chúng tôi còn cách cực Bắc chưa đầy 100m. Thoả mãn, 99%!
VÁCH ĐÁ CUỐI CÙNG - TIỆM CẬN CỰC BẮC
Lên tới độ cao 700m, mấy thầy trò tìm chỗ nghỉ hiệp 2. Ba người chờ mãi mà vẫn không thấy Thắng đâu. Gọi thì chàng ta bảo “con lên ngay đây” mà 20 phút sau vẫn chưa thấy. Sau mới biết lúc ấy cu cậu say nắng, hoa mắt không lên được. Ba chai nước nhỏ của cả đoàn đã cạn, đoạn đường còn lại mới thực sự là hành xác.
Ba người bạn đồng hành đã reo vui ở phía trên vì đoạn dốc nhất đã vượt qua, tôi vẫn còn loay hoay vì rơi vào chỗ kẹt. Vừa rướn người bám vào mép trên của vách đá, bỗng dưng chuột rút làm đơ cả tay phải lẫn chân trái. Cố gắng xoay xở tìm một chỗ dựa lưng để xoa bóp tự phục hồi thì bỗng dưng mất hết cả sức lực. Hình như mọi năng lượng đã tiêu tán hết, không còn chút nào để dự trữ. Ba thanh niên phía trên sốt ruột kêu thầy ơi, thầy hỡi, tôi cố gắng hét to “từ từ rồi ta sẽ lên” nhưng chằng hiểu địa hình quái quỷ thế nào mà lại không ai nghe thấy trong khi phía trên nói gì tôi cũng nghe rõ. “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”, cố gắng bẻ một cành cây khô, tập trung cao độ và thu hết tàn lực chống cây hỗ trợ, cuối cùng tôi cũng vượt qua được vách đá nhỏ sau hơn 20 phút thử thách, điều mà lúc bình thường chỉ mất có vài giây. Lê bước thêm được một quãng ngắn là ngã quay ra trước sự ngạc nhiên của bạn đồng hành. Hoàn toàn kiệt sức!
Nhìn lại ba chàng thanh niên, bây giờ cũng không ai còn một chút mồ hôi nào, tất cả đã bị vắt kiệt. Tới lúc này tôi mới cảm nhận được sự khác biệt giữa tuổi 44 và tuổi 20. Cu Quý với trọng lượng 75 ký, hôm leo đền Hùng đã vã mồ hôi tưởng chừng đuối sức mà bây giờ vẫn có thể phục hồi sau mỗi chặng nghỉ. Còn tôi, cơ thể rã rời, nhấc chiếc máy ảnh lên để chụp khe chữ Y bên kia biên giới cũng là một sự vật vã. Cởi ba lô nhờ Trọng mang dùm, bỏ luôn cả mũ bảo hiểm, chống gậy và cố gắng nhấc từng bước nặng nề, không lúc nào đi nổi quá 10 m. Hình ảnh những người đói khát lê bước trên sa mạc chắc cũng không thê thảm hơn tôi lúc ấy. Mới hôm qua, trong quán cơm Yên Minh, sau chầu rượu tuý luý với mấy cô người Tày tôi vẫn bế bổng anh chàng người Pháp bằng một tay, bây giờ không hiểu sức lực ấy đi đâu? Trở thành gánh nặng cho bạn đồng hành quả là một điều đáng xấu hổ. Nếu biết trước sẽ rơi vào tình trạng này, có lẽ tôi đành hài lòng với cột cờ, tự hào với cột mốc và để CỰC BẮC trong tâm tưởng chứ chẳng dám “dại dột” kéo mấy chàng trai trẻ vào cuộc phiêu lưu
Áp dụng phép “vận trù học”, Trọng quyết định cho Thắng và Quý về trước lấy xe, chạy vòng qua bản Xéo Lủng chờ hai thầy trò còn cậu ta sẽ hỗ trợ tôi cố gắng lên tới độ cao 1000m, chỗ những đám ruộng bậc thang cuối cùng tìm nước uống và phục hồi sức lực. Tự kiểm tra lại mình, thấy sức lực đã cạn kiệt nhưng khả năng xác định phương hướng vẫn ổn, tôi biết rằng sự mất nước chưa làm hại tới thần kinh, nếu hoa mắt mới là điều đáng ngại. Sự tỉnh táo này giúp tôi có thêm chút sức mạnh tinh thần để hy vọng. Tôi bảo Trọng cứ lên trước, tìm nước uống xong thì quay lại hỗ trợ nhưng cậu ta không đồng ý, sợ rằng tôi có thể gặp bất trắc trong quãng thời gian ấy. Suốt đường đi, Trọng luôn miệng động viên ”cố lên thầy ơi, còn 200m nữa thôi”, “còn 150m nữa thôi”. Tôi bảo, mày khỏi động viên làm gì, lấy được chút hơi sức nào, ta sẽ tự cố gắng. Tất nhiên, 200m hay 150m ở đây là độ cao cần phải đạt tới để tìm nước chứ chẳng phải là độ dài đường đi, cứ dích dắc thế này chẳng biết khi nào mới tới được. May mắn thay, tới độ cao hơn 900 m thì gặp khe nước nhỏ chảy tràn từ ruộng bậc thang xuống và Thắng đang đợi chúng tôi ở đó. Lúc này là 19h5’, thầy trò mừng như vừa được hồi sinh. Tính ra, tôi đã mất hơn 3 giờ để lên cao được hơn 200m kể từ khi bị chuột rút - một kỷ lục buồn!
Sau 10 phút uống ngước, nghỉ ngơi và ăn một thỏi lương khô bằng ngón tay, mồ hôi lại vã ra như tắm, tôi đã phục hồi được công lực, đội mũ bảo hiểm, khoác balô và đi liền một mạch chừng 300m. Tới lúc này thì cơ thể của Trọng lại “đình công”, chuột rút cứng đơ cả người, phải cả hai người trợ lực thì mới kéo giãn và phục hồi được. Từ đấy lên tới đường tuần tra (con đường này hồi 2011 tôi tới thì máy ủi đã bắt đầu làm việc mà bây giờ vẫn lổn nhổn đá hộc, chưa thành mặt đường) chừng hơn 2 km, Trọng bị chuột rút tới 3 lần.
Về phần Quý, sau khi uống nước, chàng cận 4,5 độ đeo cặp kính 3,5 độ của Thắng và đi về bản Xéo Lủng. Tới ngôi nhà đầu xóm, nhờ hai anh em cậu Pó dùng xe máy của gia đình “kẹp 3” chạy vòng qua ruộng ngô bên Thèn Pả lấy xe. Sau đó, Quý và Pó chạy xe xuống đường tuần tra đón mấy thầy trò. Cách nhau một vòng cung núi chừng mấy trăm mét, ba thầy trò bấm đèn pin ra hiệu, hét to bảo Quý đừng xuống nhưng cậu ta không nghe thấy và cũng không hiểu ám hiệu đèn pin. Đánh vật với cung đường lấy lội, thầy trò gặp nhau vào đúng 21h. “Ngựa người – người ngựa”, hai thanh niên lại ì ạch đấy xe lên dốc, gần 30 phút sau mới tới nhà Pó đầu bản Xéo Lủng.
Lên nhà Pó “giao lưu”, bắn điếu thuốc lào đầu tiên trong ngày, khó mà nói hết khoái cảm của tôi lúc ấy. Tặng gia đình cậu chút “quà miền Nam” để sẵn trong cốp xe, gửi anh em cậu 200k để mua sách vở cho năm học mới, bốn thầy trò từ biệt gia đình người Mông tốt bụng để về lại nhà nghỉ Cực Bắc dưới chân cột cờ. Đúng 21h 45’ cựu chiến binh Phan Đức Trọng được phép quăng xe, tự do nằm lăn ra đất. Lúc này, chẳng còn ai phải băn khoăn “hạnh phúc là gì?”.
HẠNH PHÚC LÀ ĐÂY.