Change background image
LOVE quotion

Bắt đầu từ 4.53' thứ Hai ngày 17/10/2011


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

kẻ đương thời
kẻ đương thời Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Giới tính : Nam

Bài viết : 665

Danh vọng : 1151

Uy tín : 42

Sau loạt bài "Đêm trước đổi mới", rất nhiều bạn đọc đã gọi đến Tuổi Trẻ yêu cầu đăng lại bài ký sự một thời gây sóng gió "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc.

"Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của Phùng Gia Lộc UcV93bgf
Tác giả Phùng Gia Lộc, tháng 6-1988 - Ảnh tư liệu

Ngày ấy, khi xuất hiện trên báo Văn Nghệ, những dòng chữ rút ruột từ nỗi uất ức, cay đắng, ngỡ ngàng của Phùng Gia Lộc đã tạo nên một "cơn địa chấn".

Nhiều người đã phải giật mình, phải tự nhìn lại mình, nhìn lại những việc mình làm và đang hô hào người khác làm... Một hơi gió của đổi mới cũng bắt đầu từ đó, góp vào cơn gió sẽ đổi mới cả một đất nước, đổi đời cho hàng chục triệu con người.

Theo yêu cầu của độc giả, Tuổi Trẻ ngày 21/12/2005 đã đăng lại toàn văn bài ký sự "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc trên Tuổi Trẻ Online. Xin bạn đọc thông cảm cho việc không thể đăng trên báo ngày, vì các trang còn phải dành cho tin, bài thời sự.


Cái đêm hôm ấy... đêm gì?

Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:

- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.

- Hừ! Lại thế nữa...

Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?

Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:

- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.

Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.

Anh gạn tôi:

- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.

Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:

- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.

Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...

Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.

Thấy tôi về thằng Thức reo lên:

- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?

- Có cái rét cóng đây này!

Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:

- Ứng được năm cân gạo.

Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:

- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!

Tôi hỏi:

- Nhà ăn rồi hả mẹ?

Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:

- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.

Tôi thấy cay sè trong mắt.

- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?

Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:

- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...

Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:

- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.

Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.

- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.

- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...

Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.

Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:

- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?

- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.

Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:

- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi

- Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.

Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.

Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...

Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:

- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?

Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:

- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!

Tôi vỗ về:

- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?

- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.

- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.

Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:

- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...

Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.

- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!

Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.

Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.

Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...

Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.

Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.

Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.

Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.

- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!

Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.

Cạch cạch cạch.

- Chị cò Lộc, mở cửa ra!

Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.

- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?

- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.

Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.

Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!

Bà cụ tôi đáp thay con dâu:

- Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?

- Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?

Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:

- Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.

Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.

Anh Miện bảo nhỏ tôi:

- Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.

Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:

- Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.

Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...

Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:

- Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.

Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.

- Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?

- Bắt cái xe đạp ni, bay!

Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:

- Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.

- Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?

Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:

- Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.

Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.

Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:

- Cái gì trong này, chị Lộc?

Im lặng...

- Cái gì trong này, chị nói mau?

Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.

- Có cái gì đâu...

Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:

- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.

Mẹ tôi chống gậy vái dài:

- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.

Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.

Bà cụ nói như rên rẩm:

- Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!

Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:

- Chị có gánh đi hay không thì bảo?

Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:

- Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.

Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.

- Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!

- Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!

Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:

- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.

Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.

- Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...

Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:

- Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!

Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...

Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.

Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.

Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?".

PHÙNG GIA LỘC - Cuối năm 1987
      
kẻ đương thời
kẻ đương thời Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Giới tính : Nam

Bài viết : 665

Danh vọng : 1151

Uy tín : 42

Người đứng sau "Cái đêm hôm ấy... "


(TNTS) Hôm vừa rồi, lên viếng mộ ở Thanh Tước, Phúc Yên, tôi và con trai ghé thắp hương nơi nhà thơ Bế Kiến Quốc an nghỉ. Tấm di ảnh của anh vẫn còn tươi sau hương khói thời gian. Mới đấy mà đã 7 năm, kể từ ngày anh từ giã cõi đời lắm khổ đau và cũng nhiều hạnh phúc này. Thời gian ghê gớm thật, 7 năm tưởng như nó đã xóa bỏ những dấu tích còn lại về một con người, một nhà thơ.

Đồng hành cùng Phùng Gia Lộc

Tưởng như cứ nằm xuống là con người sẽ bị thời gian phủ lên ngay một lớp bụi dày của sự quên lãng rất vô tâm, nhất là vào cái thời hối hả sống, hối hả quên trong các đô thị chật ních người và khói bụi công nghiệp này. Nhưng hình ảnh Bế Kiến Quốc vẫn còn tươi nguyên trong ký ức bạn bè văn chương, bạn bè báo chí và trong những bài thơ mà anh để lại.

"Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của Phùng Gia Lộc Nguoih10
Tranh của Nguyễn Tân Quảng

Sinh ngày 19.5.1949 tại Nam Định, Bế Kiến Quốc tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.  Hơn 20 năm công tác ở Báo Văn Nghệ, anh đã trải qua nhiều thăng trầm với nghề báo. Tuy vậy, ở anh luôn tràn đầytâm huyết, sáng tạo, giàu nghị lực, luôn tràn đầy niềm tin yêu vào sự tốt lành và cái thiện trong mỗi con người. Bế Kiến Quốc luôn luôn trăn trở, thao thức trước nỗi bất công mà mỗi một số phận phải gánh chịu.

Trong những năm báo chí cùng với đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, một loạt ký sự trên Báo Văn Nghệ đã gây tiếng vang lớn trong dư luận cả nước. Một trong những tác giả nổi bật thời điểm ấy là nhà báo Phùng Gia Lộc, người đã phải lánh nạn "cường hào mới" ở xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa đến tá túc ít tháng tại gia đình Bế Kiến Quốc - Đỗ Bạch Mai (lúc đó đang ở nhờ một căn buồng của Báo Văn Nghệ, 17 Trần Quốc Toản, Hà Nội). Trước đó, vào năm 1980, trong một chuyến đi công tác vào Thọ Xuân, Thanh Hóa, vợ chồng Bế Kiến Quốc đã quen biết với Phùng Gia Lộc, khi đó đang là cán bộ văn hóa của huyện Thọ Xuân.

Sáu, bảy năm sau, khi ra Hà Nội tìm vợ chồng Bế Kiến Quốc thì Phùng Gia Lộc đang gặp hoàn cảnh khá bi đát ở quê hương. Sau khi kể cho Quốc nghe nỗi "đoạn trường" mà những người nông dân ở một số làng quê của huyện Thọ Xuân đang phải nếm trải, được sự động viên của Quốc và một số bạn bè văn chương, Lộc đã viết luôn 2 bài ký Cái đêm hôm ấy đêm gì và Sau cái đêm hôm ấy đêm gì.

Sau khi được Bế Kiến Quốc biên tập, cả 2 bài đều đăng trên Văn Nghệ, làm xôn xao dư luận cả nước. Nhà báo Lê Xuân Kỳ đánh giá tính tích cực của các bài ký này: "Vào thời điểm ấy, nông thôn về cơ bản vẫn là bùn lầy, nước đọng, không điện, không nước tưới và một lớp "cường hào mới" đã xuất hiện, không xót xa sao được, nhưng trên các mặt báo toàn thấy những chuyện "đáng yêu". Giữa lúc đó Cái đêm hôm ấy đêm gì và một loạt bài báo của các tác giả khác ra đời. Trên mặt báo, Lộc đã gửi thông điệp nhắc nhủ toàn xã hội: nông thôn VN, nông nghiệp VN đang có vấn đề, đang kêu cứu và cần được đổi mới.

Công của anh là ở chỗ đó. Nhiều người cũng nghĩ như Lộc, cũng có thực tế và chữ nghĩa, nhưng không đủ dũng khí và tâm huyết để viết lên giấy. Bài báo có tiếng vang lớn trong cả nước, được hoan nghênh, nhưng ở quê của Lộc, cả xã chỉ có một thầy giáo đặt báo nên phản ứng không mãnh liệt như người ta đồn và điều đáng quý là mọi người đã tự điều chỉnh được".

Sau các bài ký ấy, Phùng Gia Lộc trở về quê, tiễn ông đi, bạn bè ở Báo Văn Nghệ quyên góp được dăm chục cân  gạo, ít quần áo, chăn màn cho gia đình anh. Năm 1992, Phùng Gia Lộc qua đời, một con người quanh năm suốt tháng phải vật lộn với khốn khó để mưu sinh, mà văn chương nhiều khi cũng chẳng mang lại cơm áo cho người cầm bút.

Những năm sau đó, Bế Kiến Quốc và một số bạn bè văn chương, báo chí cả nước còn một số lần quyên góp, gửi tiền về giúp đỡ gia đình cố nhà báo Phùng Gia Lộc. Tình cảm nồng ấm này còn được anh nhắc đến trong bài thơ Nhớ bạn  trong dịp cùng họa sĩ Thành Chương về thăm gia đình Phùng Gia Lộc ở Thọ Xuân: Ta theo như mộng/bạn đã mùa đông/Cát trơ bờ cạn/Chu đấy ư sông?/Đời người thấm thoát/Tri kỷ nhiều đâu/Đời sông bao chốc/Thay mấy phen cầu/Đầu làng cổ thụ/Chờ ta mà già/Bạn đừng khuất nữa/Sông đừng nước qua.

Tri kỷ với Thành Chương

Khi nhắc đến Bế Kiến Quốc người ta thường nói đến người bạn tri âm, tri kỷ nhất của nhà thơ là họa sĩ Thành Chương. Chơi thân thiết và gắn bó với nhau như bóng với hình suốt hơn 20 năm làm báo ở Văn Nghệ. Tình bạn đặc biệt của họ còn ảnh hưởng tới một số quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhau.

Họa sĩ Thành Chương bùi ngùi cảm động nhớ lại: "Có một số người chỉ đánh giá cao thơ Bế Kiến Quốc trên những tập thơ in sau lúc nhà thơ qua đời. Riêng tôi thì tôi đánh giá cao phẩm chất tài năng thơ của Quốc ngay khi ông còn sống. Chính vì thế góc độ bàn bè, tôi thường tâm sự với Quốc "ông chỉ nên làm thơ thôi - đừng nên làm lãnh đạo vì cái ông để lại cho đời là thơ ca, đấy mới là sự nghiệp chính của đời ông, cho nên tôi muốn ông chuyên tâm về việc đó".

Thành Chương cho biết, trong cuộc đời của mình, điều may mắn nhất là anh có được một người bạn thân thiết và tâm giao như Bế Kiến Quốc. Ít người biết rằng trong một số giai đoạn sáng tác hội họa của Thành Chương, Bế Kiến Quốc lại có những "cú hích" mở đầu quyết định. Cho đến nay, nhiều người không hiểu vì sao Thành Chương lại vẽ tự họa nhiều đến thế. Nhưng mọi việc bắt đầu từ một lần Bế Kiến Quốc tặng một bức chân dung gương mặt họa sĩ Thành Chương do chính anh vẽ, với những đường nét giản đơn, rất hay mà lại hiện đại.

Sau đó Thành Chương kể lại: "Tôi thao thức mãi về bức chân dung này và phát hiện ra gương mặt con người có rất nhiều nét biểu cảm đầy tính suy tư của hội họa. Từ đấy, tôi vẽ tự họa rất nhiều bằng các thể loại: sơn dầu, sơn mài, bột màu... và tạo nên một phong cách tự họa riêng. Thật ra, tự họa là mảnh đất mà mình được phép tự do sáng tạo nhiều nhất, vì không ngại ngần va chạm đến ai cả, vì mình chỉ vẽ chính mình chứ có vẽ gương mặt ai đâu. Nhưng cái bước ngoặt và động lực chính khiến tôi vẽ tự họa nhiều lại là từ Bế Kiến Quốc đấy".

Cũng như, một bài thơ của Bế Kiến Quốc cũng chính xuất phát từ một câu chuyện do Thành Chương kể lại về một lần một có một đám khách nước ngoài (người Mỹ) đến mua tranh của anh, họ hỏi chuyện và Thành Chương cũng kể về cuộc đời của mình trong những năm tháng chiến tranh khi xung phong vào bộ đội ra chiến trường chống Mỹ.

Lúc ấy người phiên dịch khuyên Thành Chương: "Nếu anh nói về chuyện ấy thì có thể họ sẽ ngại anh và không mua tranh của anh nữa đâu". Nhưng họa sĩ nói: "Tôi sẽ vẫn nói tất cả những chuyện ấy, tôi là tôi và tôi đã lựa chọn con đường ấy và không bao giờ chối bỏ cả, còn chuyện họ có mua tranh của tôi hay không lại là chuyện khác". Khi Thành Chương kể chuyện này cho Bế Kiến Quốc nghe, anh rất xúc động và sau đó có làm một bài thơ có những câu sau: Chúng ta không thể không thuộc về đâu/Khi tôi làm thơ, khi bạn vẽ/Đừng ai hỏi vì sao/Đã như thế, vẫn đang như thế/Từ những tháng năm nào/Không chọn lựa, nhưng không chối bỏ/Mảnh đất nơi mình cắt rốn chôn rau/Như người mẹ, ai có quyền chọn lựa?/Xin cảm ơn buồng trứng, bầu sữa và lời ru của mẹ/Chúng ta không thể không thuộc về đâu cả/Khi tôi làm thơ, khi bạn vẽ/Ta yêu thương, ta dại khờ, lầm lỡ/Trong một đời đầy thử thách ta qua/Xin cảm ơn đồng đội đã cùng ta/Chung cơn đói, chia niềm vui nỗi khổ/Người con gái ta yêu và cũng yêu ta/Xin cảm ơn mái tóc, làm môi, đôi tay, cặp vú/Ta chọn lựa và ta không chối bỏ...

Bế Kiến Quốc đã ở rất xa chúng ta nhưng bên tai tôi vẫn vẳng câu nói của anh với bạn bè: "Theo tôi, nếu thơ có một mục đích lớn lao nào đó là thơ phải nâng cao tâm hồn con người".

Luôn tin yêu cuộc đời

Bế Kiến Quốc là nhà thơ đầy lý tưởng và khát vọng, ngọn lửa tinh thần sáng tạo ông mang trong mình từ thuở là sinh viên còn cháy mãi trong cuộc đời làm thơ, làm báo cho đến lúc Quốc qua đời. Khi nhà thơ còn sống, chưa bao giờ tôi thấy ngọn lửa ấy, niềm tin trong sáng ấy suy sụp trong Quốc - một con người trung thực, nhất quán, đòi hỏi rất cao ở mình và bạn bè, đồng nghiệp. Từ những bài thơ đầu tay hồi sinh viên cho tới những sáng tác sau này về thân phận, về những nỗi buồn thấm thía trong đời con người, ở đâu ta cũng thấy một nhân cách thơ Bế Kiến Quốc".

Quốc là một người luôn luôn nén mình, đốt cháy mình cho sự nghiệp thơ ca, ngọn lửa sáng tạo say mê luôn thôi thúc ông. Phẩm chất này thể hiện cả trong mấy chục năm Quốc làm Báo Văn Nghệ. Bế Kiến Quốc là một nhà thơ tiêu biểu của lớp chống Mỹ về khát vọng sống nhưng lúc còn sống thì ông chưa "xuất lộ" hết diện mạo thơ ca của mình và vì thế chưa được đánh giá đầy đủ. Chỉ đến khi ông qua đời, qua một số tập thơ in sau đó, ta mới thấy Bế Kiến Quốc là nhà thơ thật sự xuất sắc mà trước đó thơ của ông chỉ như một tảng băng nhô trên biển còn phần chìm bề thế của tảng băng thì chưa lộ diện. Phẩm chất ấy, nhân cách sống ấy giúp cho nguồn thơ của ông không vơi cạn, không thấy sự bế tắc khi ông đã lựa chọn đường đời và đường thơ rất chính xác.

Chủ tịch Hội nhà văn VN - Nhà thơ Hữu Thỉnh

Nguyễn Việt Chiến
      

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn

Bạn không có quyền trả lời bài viết
free counters



  • Đoàn Ngọc Khánh

    mobile phone 098 376 5575


    Đỗ Quang Thảo

    mobile phone 090 301 9666


    Nguyễn Văn Của

    mobile phone 090 372 1401


    IP address signature
    Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất