Change background image
LOVE quotion

Bắt đầu từ 4.53' thứ Hai ngày 17/10/2011


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Nhìn lại Chiến dịch Tây Nguyên

TTXVN - Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1975 thống nhất đất nước của Quân đội Nhân dân Việt Nam diễn ra từ ngày 4/3 đến 3/4/1975.

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_15
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo chiếm các đỉnh cao ở Pleiku

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_16
Nhân dân và du kích xã Quế Lộc (Quảng Nam) rào làng chiến đấu

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_17
Gia đình một nông dân ở Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định ủng hộ lúa cho cách mạng, góp phần nuôi quân chiến đấu

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_18
Bằng mọi phương tiện thô sơ và cơ giới, các chiến sỹ vận tải Tây Nguyên vận chuyển hàng tấn hàng hóa phục vụ chiến dịch

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_19
Sở chỉ huy Mặt trận Giải phóng Tây Nguyên tháng 3/1975

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_20
Pháo binh và xe tăng quân Giải phóng trên đường hành quân vào giải phóng Quy Nhơn

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Ttxvn_21
Làm đường giao liên ở chiến khu Trung Trung bộ
      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Mặt trận lòng dân - Vũ khí làm nên chiến thắng 30/4/1975

VOV - Không chỉ học sinh, sinh viên mà rất nhiều tầng lớp nhân dân cũng bị cuốn vào những phong trào đấu tranh chống sự xâm lược của Mỹ.

Trong những năm chống Mỹ cứu nước, Sài Gòn và các đô thị miền Nam luôn luôn sục sôi bởi những cuộc đấu tranh không mệt mỏi của các lực lượng yêu nước. Trí thức, học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân, công chức chế độ cũ… đã tham gia vào cuộc đấu tranh vì tinh thần dân tộc, tạo thành một đạo quân chính trị hùng hậu, góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam Phu_nu10
Phụ nữ miền Nam Việt Nam biểu tình phản đối đế quốc Mỹ

“Mở đầu hiệu lệnh xuống đường thường là chúng tôi hát bài xuống đường: Xuống đường, xuống đường, nào anh em ơi! Dậy mau dậy chúng ta cùng xướng đường. Dậy mau dậy chúng ta cùng xuống đường. Khi có hiệu lệnh đó thì tất cả đều xuống đường”.

Nhạc sĩ Tôn Thất Lập tác giả của 2 ca khúc nổi tiếng: “Hát cho dân tôi nghe” và “Xuống đường” trở nên sôi nổi, hào hứng như vậy khi nhớ lại thời kỳ đấu tranh chống Mỹ trước năm 1975. Thời điểm đó, sinh viên, học sinh, giới trí thức Sài Gòn cùng xuống đường đấu tranh, biểu tình chống dân chủ giả hiệu, chống Mỹ, đòi thi hành Hiệp định Paris. Để khơi dậy tinh thần đấu tranh chống Mỹ trong tầng lớp sinh viên, học sinh Sài Gòn, nhiều sinh viên, nhạc sĩ đã viết các ca khúc kêu gọi đấu tranh, ca ngợi lòng yêu nước, ý chí thiết tha độc lập, tự do của dân tộc. Phong trào “hát cho dân tôi nghe” là hình thức đấu tranh sáng tạo dùng tiếng hát như một vũ khí để chống lại chế độ Mỹ-Ngụy.

Nhạc sĩ Tôn Thất Lập kể lại, trong một cuộc biểu tình chống lại bầu cử thượng viện của chính quyền Sài Gòn năm 1970, ông và hơn 100 sinh viên bị bắt giam. Trong nhà tù, nhạc sĩ Tôn Thấp Lập và bạn bè đã dùng tiếng hát để đấu tranh khiến cho địch rất lo sợ.

“Đêm đó, chúng tôi tổ chức một đêm văn nghệ rất sôi nổi, chúng tôi hát tất cả các bài hát. Sau mỗi bài hát, chúng tôi nghe trong các phòng giam xung quanh đều vang lên những tiếng vỗ tay và tiếng la khiến chúng tôi vô cùng phấn khích. Chính quyền Sài Gòn rất sợ. Sáng hôm sau, những người nòng cốt trong phong trào đều bị gọi lên hỏi cung. Họ nói với tôi: Bây giờ các anh muốn làm gì thì làm, nhưng cấm không được hát. Cho nên tôi nghĩ tiếng hát đã đi vào quần chúng và trở thành một loại vũ khí”.

Tham gia lãnh đạo sinh viên, học sinh Sài Gòn lúc đó có nhiều nhà báo, nhạc sĩ, trí thức. Họ chính là nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của các lực lượng yêu nước tại Sài Gòn. Phong trào “Hát cho dân tôi nghe” phối hợp với các cuộc hội thảo, xuống đường, biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu, Sài Gòn “những đêm không ngủ”, các chiến dịch đốt xe Mỹ… đã lôi cuốn hàng vạn người dân Sài Gòn ở mọi tầng lớp tham gia.

Không thể đứng ngoài cuộc, nhiều công chức Sài Gòn bằng cách này hay cách khác cũng tham gia các hoạt động ủng hộ cách mạng. Bà Nguyễn Thị Ngọc Sương, chủ ngôi nhà số 51/10/14, Lý Chính Thắng, quận 3, cho biết: hồi đó bà là công chức làm việc ở Bưu điện Sài Gòn. Nhà có em trai đi lính chế độ cũ nhưng lại luôn ủng hộ cách mạng và giúp bà giấu truyền đơn, súng đạn không để địch phát hiện. Nhà bà lúc đó là cơ sở hoạt động của Tuyên huấn xứ ủy Sài Gòn. Xung quanh khu vực bà ở, nhiều gia đình có người thân làm cho chính quyền cũ, biết mình giúp đỡ cách mạng, nhưng họ không tố cáo mà còn che giấu. Nhờ đó mà cơ sở - nơi gia đình bà ở không bị lộ. Bà Sương kể về một lần bà bị địch nghi ngờ, thẩm vấn: “Nó nói tôi là công chức sao còn đi làm các mạng. Chúng hỏi tôi có dấu súng, có rải truyền đơn không? Tôi trả lời: nếu tôi làm những việc đó thì các ông bắt được rồi. Thật sự là tôi giấu súng trong nhà, tụi nó đem đồ vào dò tìm nhưng không phát hiện được”.

Trong những năm tháng đấu tranh gian khổ ấy, những người tham gia các hoạt động ủng hộ cách mạng được người dân Sài Gòn chở che, đùm bọc như con em ruột thịt, khiến cho địch không làm gì được.

Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hà Minh Hồng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Những lực lượng trí thức, từ thanh niên, sinh viên, học sinh cho đến các ký giả, nhà báo, nhạc sĩ, ca sĩ, đặc biệt trong số đó có cả những công chức của chế độ cũ, của chính quyền Sài Gòn, trong cuộc đấu tranh cứu nước đó họ bị cuốn vào phong trào chung như thế. Những đêm không ngủ ở Sài Gòn, phong trào đốt xe Mỹ đã lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Không chỉ có học sinh, sinh viên mà rất nhiều những người tán thành phải đấu tranh giải phóng miền Nam, chống sự xâm lược của Mỹ”.

Các phong trào đấu tranh được phát động và dấy lên trong lòng đô thị Sài Gòn và khắp miền Nam với sự tham gia, góp sức của những sinh viên, học sinh, các nhà sư, công chức và cả những người lính chế độ cũ đã minh chứng về lòng yêu nước, thiết tha hòa bình, thống nhất của dân tộc Việt Nam. Chính sự nổi dậy của các lực lượng này hợp sức cùng các đòn tiến công của bộ đội ta đã góp phần làm nên chiến thắng trọn vẹn trong ngày 30/4/1975 lịch sử.
      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Ông Sáu Trí – một huyền thoại tình báo

QĐND - Năm nay, Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm (tức Sáu Trí) đã sắp bước vào tuổi 90. Với giọng nói nhỏ nhẹ, gương mặt phúc hậu, ông khiến mọi người thấy gần gũi khi tiếp xúc, dù mới lần đầu được gặp. Những thăng trầm, những chiến công của một chiến sĩ hơn 50 năm chiến đấu trong ngành tình báo như in dấu trên mái tóc bạc trắng và cả khoé mắt ưu tư nhưng lúc nào cũng đọng nét cười của ông.

Ông Sáu Trí sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Ông nội Nguyễn Đình Hoè từng làm quan triều Nguyễn, bà nội là con quan đại thần. Ông nội Nguyễn Đình Hoè tham gia phong trào yêu nước, bị lộ, về Gò Công mai danh ẩn tích, mang theo cha ông là Nguyễn Văn Đồng. Tấm gương yêu nước thương nòi của người cha đã truyền sang ông Nguyễn Văn Đồng; ông cũng tham gia phong trào yêu nước, là đảng viên An nam Cộng sản Đảng, từng sang Pháp hoạt động. Năm 1930 ông trở về nước, bị Pháp bắt, tra tấn dã man, đến năm 1937 được thả và một thời gian sau đó đã hy sinh. Sự hy sinh của người bố đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn, ký ức cậu bé Khiêm lúc đó mới 15 tuổi; và cậu đi theo cách mạng như một lẽ tự nhiên.

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam 31032010
Thiếu tướng Sáu Trí (bên phải) và Anh hùng tình báo Tư Cang

Đến với cách mạng khi đã có bằng Thành chung, ông Sáu Trí hăng hái hoạt động trong phong trào công chức yêu nước. Không bằng lòng với những gì làm được, từ tháng 10-1945 đến năm 1946, ông vừa tham gia kháng chiến vừa tìm đường để được hoạt động nhiều hơn, mặc dù trên vai ông lúc đó là gánh nặng mẹ già, vợ, con nhỏ, các em. Tháng 1-1946, ông băng rừng ra vùng tự do (Tuy Hoà, Quảng Ngãi). Đến Quảng Ngãi, ông được trên giới thiệu ra Hà Nội và tiếp đó đi học lớp tình báo đầu tiên ở Ngân Sơn. Ông kể rằng, lúc đó, ông không thích nghề tình báo vì ước nguyện của ông là phấn đấu trở thành sĩ quan đi chiến đấu. Nhưng rồi ở lớp học tình báo đầu tiên ấy, các thầy giáo, cấp trên đã truyền đạt cho ông hiểu vị trí của công tác tình báo và những tình cảm đối với ngành. Từ ngày đó, ông gắn bó suốt đời với ngành tình báo.

Tháng 12-1946, ông trở về Nam Bộ bằng đường bí mật trong không khí sục sôi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Sau những ngày trèo núi băng rừng, ông được biệt phái về Quân khu 7 (chiến trường miền Đông). Ban tình báo khu 7 cũng được hình thành. Trong thời gian này, có một kỷ niệm làm ông nhớ mãi - đó là ông phải ở tù một tháng, không phải nhà tù của địch mà do người của ta bắt nhốt. Nguyên do là ông bị hiểu nhầm làm gián điệp cho địch. May thay, tấm giấy chứng nhận lúc ở miền Bắc đã giúp ông thoát hiểm.

Năm 1947, ông báo cáo tổ chức xin đưa vợ là Nguyễn Thị Minh vào chiến khu. Khi đưa vợ vào, ông phải nói dối là em gái để gửi nhờ một cơ sở. Sau đó, một đám cưới giản dị mà đầm ấm được đoàn thể cách mạng tổ chức cho hai người, mặc dù ông bà đã có con... Lần đó, khi vợ ông vừa sinh con gái được hơn 1 tháng thì gặp địch càn. Ông xúc động nhớ lại, đồng chí Mười Tùng đã một tay bế con, một tay dắt vợ ông lội bộ theo đường sông để chạy giặc. Tình cảm đồng chí đồng đội trong những ngày gian khó ấy cứ in đậm mãi trong tâm trí ông cho đến tận hôm nay. Sau trận đó, ông bà đành gửi con về Gò Công, đến năm 1954 mới đón về. Chính cô bé đỏ hỏn trong trận chống càn đáng nhớ ấy sau này từng tham gia móc nối liên lạc cho ông.

Khởi nghiệp tình báo của ông là nghề giáo viên. Nhờ có vốn kiến thức phong phú, ông lấy nghề dạy học để che mắt địch. Cuối năm 1948, đầu năm 1949, Phòng tình báo Quân khu 7 được thành lập, ông được cử làm Phó phòng phụ trách điệp báo (từ 1948, 1949, 1950, Phòng sáp nhập với Phòng Quân báo Nam Bộ do đồng chí Hoàng Minh Đạo phụ trách). Thời gian này, ông thường thay mặt Phòng Quân báo Nam Bộ báo cáo trực tiếp tình hình với đồng chí Lê Đức Anh. Đến năm 1952, ông về phụ trách Phòng quân báo đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.

Năm 1953, 1954, Bộ chỉ huy Sài Gòn - Chợ Lớn giao nhiệm vụ cho ông tìm cách xâm nhập hàng ngũ địch để hoạt động. Nhờ có người chị lấy chồng là Giám đốc Ty Công an, ông được nhận vào đó làm việc. Đây là vị trí vô cùng thuận lợi để ông có thể thu thập tin tức, tài liệu quan trọng của địch gửi về cho tổ chức. Anh rể có vai vế, nhiều lần gợi ý cho ông đi học để thăng quan tiến chức nhưng ông làm bộ giữ ý, chỉ xin làm thư ký văn phòng. Với chức danh này, ông được tiếp xúc với tài liệu mật. Nhiều lần ông chuyển được những tài liệu về các trận càn quét địch định tổ chức, các cuộc vây ráp cán bộ ta của Ty Công an cho đồng chí Hai Văn (Thường vụ Xứ uỷ), nhờ đó ta tránh được những tổn thất nặng nề. Cũng nhờ vị trí của mình, ông và vợ (là giao liên) đã góp phần bảo vệ an toàn cho các đồng chí trong Xứ uỷ; có lần đồng chí Hai Văn đã ăn ở tại nhà ông, ngay trước mũi địch. Thời gian này, ông đã có lần báo cáo tin tức cho đồng chí Ba Duẩn tại nhà đồng chí Hai Văn. Lần khác, khi bắt gặp tài liệu của Miền lọt vào tay giặc, ông đã báo cáo kịp thời để ta truy tìm kẻ phản bội.

Công việc đang trôi chảy, bỗng một hôm, vào khoảng tháng 8-1962, người anh rể (lúc này đã mất chức) gọi ông đến và cho biết: Người chỉ huy của ông tên là Năm Phận đã khai báo với địch về hoạt động của ông. Ông nhìn lại, thì thấy, thời gian qua có kẻ nào đó đã phản bội, nhiều tổ chức của ta bị địch bắt, phá vỡ, nhưng không hiểu sao ông vẫn an toàn. Thì ra Năm Phận đã quay lưng lại với cách mạng, làm tay sai cho địch. Sở dĩ, địch chưa bắt ông vì sợ sẽ lộ ra sự phản bội của Năm Phận. Bình tĩnh suy xét, ông giả vờ tới nhà Năm Phận để báo cáo việc địch định bắt ông. Năm Phận vẫn làm ra vẻ chưa có chuyện gì xảy ra. Lúc này trong ông là sự giằng co quyết liệt giữa đi và ở. Đi, ông có thể thoát, nhưng còn vợ và 8 đứa con? Còn ở, chắc chắn ông sẽ rơi vào tay giặc, rồi số phận của bao nhiêu đồng chí liên quan tới ông nữa sẽ ra sao? Đang phân vân thì đã thấy địch báo động, cho lính rầm rập bủa vây các ngả, nhất là khu vực bến xe. Ông không trốn bằng xe đò, mà chạy về hướng Gò Công, vào vùng giải phóng. Cay cú, địch mở cuộc hành quân rượt theo ông, nhưng không có kết quả. Sau này, thu được tài liệu của địch, ông được biết, nếu lần đó bắt được ông, chúng giết ngay tại chỗ vì đã có lệnh. Thoát khỏi tay giặc, chưa kịp mừng vui, ông lại bị bắt, nhưng là quân giải phóng bắt vì nghi ông là Việt gian! Một đơn vị Quân giải phóng đã trói ông và giam giữ cẩn thận để khai thác. Cuối cùng, nhờ phong cách, thái độ và bằng cứ chứng minh mình là cộng sản của ông, họ đã nhận ra ông là người đồng chí. Ông được lệnh ra chiến khu, "chấm dứt giai đoạn mặc đồ nguỵ phục vụ cách mạng" (như lời ông nói).

Từ tháng 1-1963 đến tháng 8-1965, ông là Cụm trưởng cụm tình báo A20, đồng chí Bảy Vĩnh (Anh hùng LLVT nhân dân) là cụm phó, cụm bám trụ ở chiến khu Bời Lời. Nhiệm vụ của cụm là xây dựng lưới tình báo thành phố, xây dựng giao thông mật, bộ đội trinh sát...Anh em trong cụm là những chiến sĩ gan dạ, mưu trí, vừa hành động như tình báo chiến lược, vừa có khả năng chống địch càn quét. Năm 1963, cụm đã phục vụ đắc lực cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm...

Từ 1965 đến 1968, phòng tình báo Miền lập được những chiến công rực rỡ. Năm 1968, thành lập phòng tình báo Miền chuyên trách điệp báo, tình báo chiến lược; ông giữ chức phó phòng, rồi trưởng phòng. Với cương vị của mình, ông đã góp phần xây dựng một cụm tình báo hoàn chỉnh, phát triển lực lượng tình báo cũ ở miền Nam, phục vụ đắc lực cho cuộc chiến tranh chống Mỹ. Bên cạnh ông là những chiến sỹ tình báo chui sâu, leo cao trong hàng ngũ địch nhiều năm ròng rã, thu được những tin tức, tài liệu vô cùng quí giá phục vụ cách mạng, phục vụ đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược như: tài liệu về các bước chiến lược chiến tranh Mỹ tiến hành ở Việt Nam, Mỹ leo thang, xuống thang, tin về chiến tranh mở rộng sang CPC...Ông tâm sự: "Đảng đã cho tôi một đội ngũ các đồng chí xuất sắc, trung kiên. Tôi đã hoà nhập được với họ, tạo được những chiến công đóng góp cho ngành, cho cách mạng...". Ông luôn đề cao những chiến công của đồng chí, đồng đội mình, của cả một tập thể anh hùng.

Tháng 3-1974, ông lại vào Sài Gòn. Ngày 19-4-1975 ông vào chiến trường nhận nhiệm vụ nắm tình hình phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 25-4, vào đến Sài Gòn, ông còn trực tiếp xây dựng một đại tá nguỵ tên Lộc nắm một đội biệt động quân, phục vụ cách mạng. Ngày 16-4, có tin cho biết: Dương Văn Minh lên Tổng thống, muốn gặp quân giải phóng bàn vấn đề thương lượng. Ông truyền đạt: "Anh về nói lại với Dương Văn Minh nên nghe theo lời Mặt trận Dân tộc Giải phóng, đầu hàng vô điều kiện".

Khoảng 9 giờ 30 phút sáng 30-4, tại nhà một cơ sở cách mạng (là nghị sĩ Quốc hội của ngụy), ông nghe trên Đài Phát thanh Sài Gòn lời phát biểu của Dương Văn Minh kêu gọi quân đội Sài Gòn buông súng, chấp nhận những điều kiện của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Vài giờ sau, một số đồng chí mời ông vào Dinh Độc Lập để chứng kiến sự đầu hàng của nội các Dương Văn Minh. Nhằm tránh mọi hành động đáng tiếc xảy ra khi Quân Giải phóng tiến vào tiếp quản Dinh Độc Lập. Ông cùng một số điệp viên khác đã vào Dinh Độc Lập, đến phòng của Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền thì thấy có một bộ phận Quân Giải phóng đã có mặt trong Dinh. Bộ đội ta đòi bắt toàn bộ các nhân vật này làm tù binh. Sợ anh em vi phạm chính sách của Mặt trận Giải phóng, ông liền gặp và giải thích: Nội các Dương Văn Minh đã chấp thuận theo những điều kiện của ta nên vừa có thông báo đầu hàng trên Đài phát thanh. Lúc đầu, bộ đội không tin vì thấy ông mặc thường phục. Ông đành tự giới thiệu mình là Đại tá Sáu Trí, Sĩ quan Bộ Tham mưu B2 vào Sài Gòn làm công tác đặc biệt trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. May sao, đúng lúc đó xuất hiện một sĩ quan thuộc đơn vị thiết giáp, là người bạn học cùng khóa quân sự cấp cao với ông ở Hà Nội…

Sau đó, ông đã gặp Thiếu tướng Nguyễn Hữu An-Tư lệnh Quân đoàn 2 -và tham gia bàn việc tiếp quản Dinh Độc Lập. Các ông nhất trí nên có lời công bố chính thức của Quân Giải phóng trên đài phát thanh. Thiếu tướng Nguyễn Hữu An phân công Sáu Trí soạn thảo gấp. Ông cùng với Tô Văn Cang, Ba Lễ bàn nhau và thống nhất giao cho Tô Văn Cang chấp bút bản thông báo với tựa đề “Thông báo số 1”. Viết xong, ông đến gặp Thiếu tướng Nguyễn Hữu An để thông qua. Ông tế nhị từ chối không đề tên đơn vị mình và đề xuất chỉ nên đề là “Bộ tư lệnh Quân Giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định”. Ông Tô Văn Cang được phân công cùng với ông Giàu lên xe com-măng-ca chạy ra Đài phát thanh. Phải khó nhọc lắm xe của ông mới vào được trong. Ông Cang lên lầu, đọc chậm và rõ bản “Thông báo số 1”. Ông Giàu đọc lại lần hai. Sau đó dặn cứ 5 phút thì lặp lại một lần.

Bản "Thông báo số 1” của Bộ tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định là bản tin chính thức được ta phát trên Đài phát thanh, vài giờ sau lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh.

Trong lúc ông và Thiếu tướng Nguyễn Hữu An đang bàn công tác bảo đảm an ninh thì anh em cho biết những thành viên nội các Dương Văn Minh đang tỏ ra hoảng loạn. Thiếu tướng Nguyễn Hữu An đề nghị ông nên đi gặp gỡ họ vì ông là người miền Nam, lại làm tình báo nên biết tâm lý, tình cảm của họ. Ông Sáu Trí đã mời họ ra hành lang để nói chuyện. Tướng Minh đứng trước, các thành viên đứng kế tiếp. Sáu Trí động viên họ về sự chiến thắng vĩ đại của quân, dân ta và về việc đầu hàng không điều kiện của nội các Dương Văn Minh đã góp phần giữ thành phố Sài Gòn vẫn được nguyên vẹn. Ông còn hứa sẽ bảo đảm việc an toàn tính mạng cho họ. Lúc ấy, Dương Văn Minh xin phép tạt qua phòng riêng để thăm người vợ đang lo lắng cho số phận của chồng…

Năm 1997 ông Sáu Trí mới nghỉ hưu. Quanh ông lúc nào cũng vui vầy con cháu và sự chăm sóc chu đáo của người vợ hiền những khi trái gió trở trời. Không hổ danh con nhà nòi yêu nước, nhiều người con của ông từng là bộ đội, người đã chuyển ngành, người vẫn đang trong quân ngũ. Người con gái thứ hai từng phụ trách điện đài mật của tình báo ở Sài Gòn phục vụ cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968; người con trai thứ tư là sĩ quan Quân đội, tham gia tiểu đoàn trinh sát của tình báo vào giải phóng Sài Gòn; con trai thứ năm, 15 tuổi đã làm liên lạc cho tình báo; con trai thứ sáu (ông lấy tên làm bí danh của mình - Sáu Trí) từng là lính xe tăng chiến đấu ở Campuchia...Trong ngôi nhà giản dị của mình, ông dành một gian trang trọng nhất để trưng bày hình ảnh, kỷ vật truyền thống của gia đình - những hình ảnh, kỷ vật của một đời phục vụ cách mạng.
      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Công tác binh - địch vận góp phần làm nên thắng lợi

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác binh-địch vận (BĐV) có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân. Điều này thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 (1-1959) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã xác định: “Đảng phải xúc tiến đặc biệt công tác binh vận, kiên trì, bí mật và khéo léo đi sâu tranh thủ được binh lính đồng tình với cách mạng xây dựng khối công nông binh liên hiệp…”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 (9-1963) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) khẳng định: “Xuất phát từ phương châm đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, chúng ta phải kết hợp đánh địch bằng 3 mũi: Đánh địch bằng chính trị, đánh địch bằng quân sự và đánh địch bằng binh vận… Công tác binh vận phải được làm tốt để phục vụ đắc lực cho phương hướng tiến tới Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa của ta”.

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam 30032010
Tù binh Mỹ bị bắt trong chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Ảnh tư liệu

Từ chủ trương lãnh đạo của Đảng, BĐV trở thành một nội dung của đường lối chính trị, một bộ phận của đường lối chiến tranh nhân dân, là một trong ba mũi giáp công đánh địch. Công tác BĐV trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước luôn luôn quán triệt và phục vụ cho đường lối, nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng và có sự phát triển không ngừng cả về nội dung và phương thức. Đó là quá trình tuyên truyền, vận động, tổ chức, hướng dẫn hành động rất lâu dài và công phu. Nó gắn liền với phong trào đấu tranh chính trị, với chiến lược, chiến thuật quân sự, được tiến hành đồng thời với tác chiến của LLVT. Bằng hoạt động bền bỉ, liên tục, công tác BĐV đã góp phần quan trọng làm sụp đổ ngụy quân, ngụy quyền cả về tư tưởng và tổ chức. Có thể ví công tác BĐV làm mục ruỗng một thực thể từ bên trong, góp phần tạo điều kiện cho ngoại lực đạp vỡ thực thể đó một cách nhanh chóng. Đó là một mặt trận có tiếng súng và không tiếng súng, được tiến hành trong lòng địch, đầy hy sinh gian khổ của toàn quân, toàn dân.

Bản chất BĐV trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là công tác tuyên truyền, vận động, tranh thủ, lôi kéo những người Việt Nam vì những lý do khác nhau đang cầm súng, làm việc cho Mỹ, ngụy trở về với dân tộc, đứng lên cùng nhân dân chống xâm lược và bè lũ tay sai phản động, làm cho ngụy quân, ngụy quyền suy giảm, tê liệt dẫn đến tan rã về tư tưởng, tổ chức; đồng thời là mũi tiến công chính trị vào quân xâm lược Mỹ và chư hầu, làm cho chúng sa sút tinh thần, suy sụp ý chí xâm lược. Chính vì vậy, công tác BĐV trong kháng chiến chống Mỹ đã trở thành phong trào quần chúng tích cực, tự giác, liên tục, đều khắp; nhiều lực lượng tiến hành, đối tượng tác động và hình thức phong phú. Điều này thể hiện rõ ngay khi mới chiếm đóng được miền Nam, đế quốc Mỹ liên tiếp mở chiến dịch đàn áp, khủng bố nhân dân một cách hết sức dã man, dìm cách mạng miền Nam trong bể máu, dùng bộ máy chiến tranh tâm lý liên tục xuyên tạc lý tưởng cộng sản. Mỹ sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại tiến hành đánh phá hủy diệt, mở các chiến dịch “tố Cộng, diệt Cộng”. Khi nhân dân vùng lên đồng khởi, Mỹ đưa vào miền Nam các loại vũ khí hiện đại, áp dụng các chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” dồn dân vào ấp chiến lược, thực hiện “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”... Để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, quân, dân ta đã đoàn kết một lòng, thực hiện cả nước là một mặt trận, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ; kết hợp chiến tranh cách mạng với khởi nghĩa của quần chúng, vừa tấn công tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, vừa khoét sâu chỗ yếu của chúng về chính trị và tinh thần.

Trong cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến trình độ cao, công tác BĐV được sự tham gia đông đảo của nhân dân từ nông thôn đến thành thị, mọi ngành, mọi giới, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, từ người già đến trẻ nhỏ, gia đình binh sĩ... ở đâu có binh sĩ địch là ở đó có hoạt động BĐV với nhiều hình thức phong phú như: Vận động đào rã ngũ, hướng dẫn làm binh biến, tuyên truyền giác ngộ binh sĩ, móc nối xây dựng cơ sở, phát hiện bọn điệp báo phản bội...

Công tác BĐV phối hợp nhịp nhàng với đấu tranh ngoại giao, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trên thế giới cả về tinh thần, vật chất; phục vụ nhiệm vụ đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, chống khủng bố, đàn áp, góp phần đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Trong những năm địch tăng cường khủng bố, Trung ương Đảng chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh công tác vận động binh sĩ địch và lập ra những đội võ trang bí mật mang danh lực lượng giáo phái ly khai để hoạt động tự vệ. Xứ ủy Nam Bộ đã chỉ đạo các địa phương phá kế hoạch xây dựng lực lượng của địch, hạn chế tác dụng đàn áp bằng cách đưa người của ta vào quân đội và chính quyền các cấp của địch, nhất là cấp xã. Tại Khu 5, liên khu ủy chỉ đạo các địa phương vận động phân hóa nội bộ địch, kiềm chế hoặc trừng trị bọn phản động, ác ôn, không để địch dùng quân đội đánh phá cách mạng. Các địa phương vận động binh sĩ, nhân viên ngụy quân, ngụy quyền ủng hộ và tham gia phong trào đấu tranh của nhân dân đòi các quyền tự do, dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và chống khủng bố đàn áp; xây dựng và sử dụng cơ sở trong lòng địch hoạt động hỗ trợ cho hình thức đấu tranh chính trị và võ trang tự vệ chống Ngô Đình Diệm và cải tạo họ đi theo cách mạng.

Công tác BĐV còn tận dụng sức mạnh của đấu tranh chính trị để vận động binh sĩ địch buông vũ khí, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Binh vận trong ba mũi giáp công chống phá, làm thất bại “quốc sách ấp chiến lược” của Mỹ-Diệm. Tại các địa phương, nhiều trưởng ban binh vận xã kiêm trưởng ban chống phá ấp chiến lược cùng chi bộ, đảng viên vào ấp chiến lược bám dân, bám địch, xây dựng lực lượng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Ở vùng miền núi Khu 5 và Tây Nguyên, ta tranh thủ các già làng, chức sắc có uy tín của tôn giáo, dùng phong tục tập quán, lệ làng, giáo lý để ngăn chặn hoặc rải truyền đơn, viết thư cảnh cáo, răn đe bọn ác ôn. Các tỉnh Nam Bộ đưa cán bộ, đảng viên, du kích, bộ đội về xã, ấp phát động quần chúng vận động gia đình binh sĩ và qua họ tiếp cận, nắm ấp trưởng, ấp phó, binh sĩ các lực lượng địch, xây dựng cơ sở nội tuyến, tạo điều kiện cho ba thứ quân bám trụ, đánh điểm diệt viện, phá hàng mảng lớn ấp chiến lược trên nhiều vùng rộng lớn. BĐV trong ba mũi giáp công đánh bại các chiến thuật quân sự, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quân ngụy, huy động đông đảo quần chúng xuống đường bám các trục lộ giao thông, các trụ sở ngụy quyền, căn cứ chỉ huy gây náo loạn hậu phương địch, tác động mạnh đến tinh thần binh lính địch. Cán bộ, nhân dân làm công tác BĐV tích cực tuyên truyền khoét sâu mâu thuẫn nội bộ địch, khơi dậy ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, chống Mỹ trong binh sĩ, ngụy quân, nhân viên ngụy quyền, thúc đẩy hành động binh biến, ly khai, góp phần làm suy yếu và tan rã một bộ phận quân ngụy, thức tỉnh lương tri binh sĩ Mỹ, chư hầu và nhân dân tiến bộ Mỹ, thúc đẩy hành động chống lại cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế quốc Mỹ.

Công tác BĐV của chúng ta đã lấy nhân nghĩa để cảm hóa, lấy khoan hồng để đối xử, tuyệt nhiên không báo oán trả thù, thực hiện đúng chính sách khoan hồng đối với tù binh, hàng binh, có chính sách phù hợp sử dụng binh lính, sĩ quan, tướng tá địch trong trường hợp họ thật tâm quay về với nhân dân, với cách mạng… Trong kháng chiến chống Mỹ, Quân đội ta đã kết hợp chặt chẽ binh vận với dân vận, địch vận với tác chiến, làm suy yếu tinh thần quân ngụy trên chiến trường, góp phần làm thất bại âm mưu thủ đoạn của địch. BĐV trong ba mũi giáp công đánh phá bình định làm chuyển biến tình hình ở nông thôn và đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị. Trong các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng đã dựa vào sức mạnh áp đảo bằng mũi tấn công quân sự của các binh đoàn chủ lực, công tác BĐV vận động làm tan rã địch tại chỗ; cán bộ BĐV dũng cảm, táo bạo tiếp cận các đối tượng ở các cấp, buộc nhiều tên chỉ huy địch phải đầu hàng không điều kiện. Trong Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung, hoạt động BĐV nổi lên là: Phát động toàn dân và cùng lực lượng vũ trang ba thứ quân dùng mọi hình thức vận động làm tan rã địch tại chỗ, không cho chúng rút chạy co cụm, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực phát triển tấn công giải phóng các địa phương khác. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn, BĐV đã phát huy cao độ mọi khả năng, lực lượng, phương thức hoạt động, góp phần to lớn vào thắng lợi trên chiến trường. Trên đường hành quân thần tốc, các binh đoàn chủ lực ta vừa tác chiến vừa làm công tác BĐV, một số đơn vị Quân đoàn 4 khi tiến đánh vào các căn cứ địch ở Hố Nai, Biên Hòa đã dùng loa gắn trên xe bọc thép thông báo tình hình chiến sự ngay trong hành tiến và dùng tù binh, hàng binh kêu gọi binh lính địch hạ vũ khí. Đến cao trào nổi dậy thực hiện “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh” ở Đồng bằng sông Cửu Long, BĐV ở nhiều nơi trở thành mũi xung kích trực tiếp làm tan rã địch…

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Chính trị đã đánh giá: “Binh vận là một mũi tiến công chiến lược nhằm tan rã quân đội địch, nhất là để phá tan chính sách dùng “người Việt đánh người Việt” vô cùng thâm độc của đế quốc Mỹ”.

      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Đại thắng mùa Xuân 1975 - Thành quả vĩ đại về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam 210Bộ Chính trị họp bàn kế hoạch giải phóng miền Nam - 1975
Cách đây 40 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng oanh liệt của dân tộc ta, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Có được thắng lợi vĩ đại ấy, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh gian khổ, kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của con người và văn hóa Việt Nam; đồng thời, đó còn là thành quả vĩ đại về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trong quá trình đương đầu với mọi thiên tai, địch họa. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống đó được phát huy cao độ lên tầm cao mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [1]. Chính tinh thần đoàn kết dân tộc ấy đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực, đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [2].

Trên nền tảng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở miền Bắc, tháng 9/1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập. Mặt trận đã đoàn kết các tầng lớp nhân dân miền Bắc, dựa chắc trên nền tảng của khối liên minh công - nông và đội ngũ trí thức để thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc; đồng thời, chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, phát huy vai trò quyết định của hậu phương lớn miền Bắc đối với công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ở miền Nam, những năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, với niềm tin sắt son vào Đảng, vào ngọn cờ đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, các tầng lớp nhân dân đã đoàn kết một lòng, liên tục nổi dậy đấu tranh. Với phong trào Đồng khởi, quân dân miền Nam đã đập tan từng mảng chính quyền Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi được tạo nên bởi ý Đảng, lòng dân, phản ánh sự thống nhất về ý chí, hành động và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Cũng chính từ đây, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam đặt ra yêu cầu khách quan phải có một tổ chức đoàn kết thật rộng rãi các lực lượng chống đế quốc Mỹ và tay sai. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, các đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, nhằm đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước.

Việc thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở hai miền là chủ trương đúng đắn, phản ánh sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Đứng trước khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân vào thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam, ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, gồm 300 đại biểu đại diện cho các bậc lão thành cách mạng, các ngành, các giới, các đoàn thể, trí thức tiến bộ, nhân sĩ yêu nước và anh hùng, chiến sỹ thi đua toàn quốc. Đây thực sự là “Hội nghị Diên Hồng” thời đại Hồ Chí Minh để thống nhất ý chí quyết tâm đoàn kết toàn dân tộc cùng chiến đấu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.

Tiếp đó, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, kêu gọi toàn thể đồng bào, chiến sỹ cả nước muôn người như một, với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quyết tâm đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là nguồn động lực mới góp phần thắt chặt thêm khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa cả dân tộc Việt Nam vào cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân miền Bắc đã kết thành một khối, đẩy mạnh các phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Đặc biệt, các phong trào, như: “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng” và các khẩu hiệu hành động: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ; bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc; đồng thời, liên tục chi viện ngày càng nhiều sức người, sức của cho chiến trường miền Nam và các chiến trường phối hợp khác.

Trên chiến trường miền Nam, kiên định với đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và hưởng ứng mạnh mẽ Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta vừa đẩy mạnh tiến công địch liên tục, rộng khắp với quy mô ngày càng lớn trên cả phương diện quân sự, chính trị và binh vận; vừa đánh địch, vừa kết hợp lập thế trận và chuẩn bị tiềm lực mọi mặt; xây dựng và mở rộng căn cứ, mở rộng vùng giải phóng để chuẩn bị trực tiếp cho những đòn tiến công quyết định.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là sự tiếp nối tinh thần và ý chí sắt đá quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, qua đó đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đáng chú ý, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ngày 20/4/1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam ra đời, tập hợp những người Việt Nam có cảm tình với cuộc đấu tranh của ta nhưng vì lý do này hay lý do khác mà chưa tham gia vào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (một hình thức tập hợp “ngoài mặt trận” của Đảng) và việc phối hợp chặt chẽ hoạt động của Liên minh với hoạt động của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã góp phần cô lập cao độ kẻ thù, tạo nên sức mạnh mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Khẳng định khối đại đoàn kết trong những năm tháng chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong sự nghiệp thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước, trải qua muôn nghìn gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã lập nên những chiến công vô cùng oanh liệt. Dân tộc ta có thể tự hào là một dân tộc anh hùng, trước hết là do toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” [3].

Sau sự kiện Tết Mậu Thân, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc lại được thử thách và tiếp tục phát huy. Chúng ta đã nhanh chóng khắc phục những tổn thất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, từng bước tiến công địch, khôi phục lại thế trận và lực lượng trên chiến trường. Ở miền Bắc, quân dân ta phải đương đầu với cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng nhưng với lòng tin vào Đảng, vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp chính nghĩa, các tầng lớp nhân dân trong cả nước vẫn đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vượt qua bao hy sinh, gian khổ, liên minh chiến đấu với cách mạng Lào và Cam-pu-chia, làm phá sản một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B-52 của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải chấp nhận thất bại và ký Hiệp định Pa-ri theo các điều kiện của ta đưa ra, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Với Hiệp định Pa-ri, thế và lực của cách mạng miền Nam trên cả ba vùng chiến lược nhanh chóng được tăng cường và củng cố vững chắc. Các binh đoàn chủ lực cơ động Quân giải phóng miền Nam lần lượt ra đời đã dần làm thay đổi cán cân so sánh lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta. Trong khi đó, đế quốc Mỹ vẫn tăng cường viện trợ về quân sự và kinh tế cho chính quyền Sài Gòn, tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ trợ giúp đã vi phạm những điều khoản của Hiệp định, tăng cường lấn chiếm và tiếp tục mở rộng chiến tranh. Tình hình đó đòi hỏi cách mạng miền Nam vẫn phải tiếp tục tiến hành chiến tranh cách mạng đánh bại chính quyền tay sai của Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuối năm 1973 và cả năm 1974, cùng với gấp rút củng cố và phát triển lực lượng tại chỗ trên chiến trường, Đảng chỉ đạo nhiệm vụ tăng cường chi viện của hậu phương miền Bắc. Theo đó, mức tuyển quân và huy động của cải vật chất ở miền Bắc tăng nhiều lần so với các thời kỳ trước. Hội đồng chi viện chiến trường được thành lập. Đến cuối năm 1974, việc chuẩn bị về mọi mặt đã tạo nên sự chuyển biến căn bản trong thế và lực của ta trên chiến trường. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên sức mạnh của quân dân cả nước hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976. Sau Chiến thắng Phước Long (1/1975) thế và lực của ta tăng lên, khả năng Mỹ đưa quân trở lại là rất khó xảy ra, Bộ Chính trị đi đến quyết định mở cuộc tiến công chiến lược để hoàn thành giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên - đòn “điểm trúng huyệt” đã nhanh chóng làm thay đổi cục diện chiến trường, tăng cường thế và lực của ta, mở ra thời cơ mới để quân và dân ta giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất.

Cuối tháng 4/1975, sau khi phá vỡ được tuyến phòng thủ Xuân Lộc - “cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn, các cánh quân chủ lực cơ động mạnh cùng với thế trận chiến tranh nhân dân dựa trên cơ sở nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đã đồng loạt tiến công vào nội đô Sài Gòn - Gia Định, đánh chiếm các mục tiêu đầu não của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ giải phóng tung bay trên đỉnh cột cờ nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu thời khắc sụp đổ hoàn toàn của chế độ Việt Nam Cộng hòa, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối.

Có thể khẳng định, Đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thành quả vĩ đại về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Sức mạnh đoàn kết dân tộc đó được hun đúc qua suốt chiều dài lịch sử, nhưng đã được nâng lên một tầm cao mới trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Thấm nhuần tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và luôn khẳng định Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết ấy. Nhờ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị nên Đảng ta đã phát huy cao nhất sự sáng tạo, trí tuệ tập thể, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với việc định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã có những chủ trương, sách lược phù hợp và có sự chỉ đạo chiến lược sắc bén, đặc biệt là đã biết nắm chắc thời cơ, chỉ đạo đánh đòn quyết định, giành thắng lợi trọn vẹn vào mùa Xuân năm 1975.

Thành quả vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng mùa Xuân 1975 còn thể hiện ở sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam với tinh thần bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sỹ miền Nam trên tiền tuyến lớn và sự chi viện hết lòng của hậu phương lớn miền Bắc với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt”. Mặc dù kẻ thù luôn tìm trăm phương, nghìn kế để chia rẽ Bắc - Nam hòng cô lập cách mạng miền Nam, nhưng Bắc - Nam luôn là một nhà. Cả miền Bắc ngày đêm hướng về miền Nam, dốc hết sức người, sức của cho công cuộc giải phóng miền Nam. Cả miền Nam ngày đêm hướng về miền Bắc - nơi đầu não của cách mạng và kháng chiến.

Cùng với tình cảm Bắc - Nam sâu nặng, “tình quân - dân cá nước” đã trở thành một biểu tượng sáng ngời của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng mùa Xuân 1975. Sở dĩ có được tình cảm “đoàn kết quân - dân”, “gắn bó cán binh” là do quân đội ta “từ nhân dân mà ra”, “vì nhân dân mà chiến đấu”. Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, quân đội ta đã thể hiện bản lĩnh và trí tuệ quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược, xứng đáng với lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [4].

Từ sau Đại thắng mùa Xuân 1975 đến nay, đã 40 năm trôi qua, nhưng bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, phát triển cả về quan điểm, nhận thức và hành động. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [5]. Chính từ sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy, đất nước ta đã thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử: kinh tế, xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới và hội nhập quốc tế của chúng ta đã trở thành tấm gương cho nhiều quốc gia, dân tộc học tập, noi theo.

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định, bất trắc, khó lường. Quan hệ giữa các nước lớn vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục điều chỉnh chiến lược, hình thành những tập hợp lực lượng mới trong khu vực và trên thế giới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, cơ bản vẫn ổn định và phát triển nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biên giới, biển, đảo tiếp tục gia tăng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, những khó khăn, thách thức mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí có xu hướng ngày càng tăng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Những yếu tố đó đã, đang và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết dân tộc được hun đúc suốt hàng ngàn năm lịch sử. Trước bối cảnh đó, việc kế thừa và phát huy bài học đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng mùa Xuân 1975 nói riêng, trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung sẽ mãi là vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta hãy đoàn kết và đoàn kết hơn nữa, khẩu hiệu “Toàn quân một ý chí” phải được nâng lên thành “Toàn quân, toàn dân một ý chí”. Cùng với đó, để khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng mùa Xuân 1975 mãi được giữ vững, phát huy trong điều kiện cách mạng mới, chúng ta phải thường xuyên chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nâng cao năng lực toàn diện và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Chỉ có như vậy, Đảng ta mới thực sự là hạt nhân lãnh đạo, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc, mới biến sức mạnh của cả dân tộc thành động lực to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” [6].

[1] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.38.

[2] - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3.

[3] - Điện gửi Luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, ngày 6-3-1969. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.558.

[4] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435.

[5] - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.48.

[6] - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.62.


      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Sức mạnh chính trị-tinh thần, nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam 22042010Các đơn vị bộ đội từ miền Bắc hành quân vào chiến trường miền Nam
1. Cách đây 40 năm, với thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến công oanh liệt đó đã ghi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trang sử vàng chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một sự kiện chính trị-quân sự mang tầm vóc thời đại.

Sau Hiệp định Pa-ri (27-1-1973), đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" với hy vọng dùng 71 vạn quân chính quy và 1,5 triệu bảo an dân vệ của chính quyền Sài Gòn đã được "hiện đại hóa" và "tinh nhuệ hóa", trắng trợn phá hoại Hiệp định, đẩy mạnh lấn chiếm, bình định, duy trì chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: Kiên quyết thực hiện tư tưởng chiến lược chủ động tiến công, tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ, tiến công quân địch, giành thắng lợi từng bước tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Năm 1974, cục diện chiến trường chuyển biến nhanh chóng, ngày càng có lợi cho ta, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chính trị, kế hoạch chiến lược để tận dụng thời cơ lịch sử, sớm mở cuộc tiến công và nổi dậy kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 10-3-1975, với "đòn điểm huyệt" Buôn Ma Thuột, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta bắt đầu. Sau Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế, Đà Nẵng thắng lợi nhanh chóng, 17 giờ ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị: "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", 5 cánh quân chủ lực hùng mạnh của ta tiến hành tổng tiến công vào Sài Gòn cùng với sự phối hợp chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương và phong trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, chúng ta đã đập tan sự kháng cự của địch, buộc nội các chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu trước lúc Người đi xa "Chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn" đã được quân và dân ta thực hiện trọn vẹn.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài liên tục trong 30 năm của quân và dân ta. Với thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân Việt Nam phải đương đầu với cỗ máy chiến tranh khổng lồ, đối chọi với tên "sen đầm quốc tế" có tiềm lực quân sự hùng mạnh và giàu có nhất là đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai. Để đánh bại kẻ thù hung bạo, chúng ta đã phát huy cao độ ưu thế tuyệt đối và sức mạnh của chiến tranh nhân dân; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường đoàn kết quốc tế, nêu cao ý chí quyết tâm sắt đá và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không sợ hy sinh, gian khổ, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách... giành thắng lợi cuối cùng.

2. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là chiến thắng của bản lĩnh, sức mạnh và trí tuệ Việt Nam, chiến thắng của chiến tranh nhân dân Việt Nam, trong đó sức mạnh chính trị-tinh thần là nhân tố cơ bản, hàng đầu, quyết định. Sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, là sự kết tinh, hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc không chỉ trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà là sự phát huy đến đỉnh cao sức mạnh của cả dân tộc và thời đại vào cuộc quyết chiến chiến lược đánh bại kẻ thù xâm lược; là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng với đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và sức mạnh của tiền tuyến lớn miền Nam đã kiên trung, anh dũng, kiên quyết đứng lên chống kẻ thù xâm lược. Sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta là sức mạnh tổng hợp của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại, được quy tụ và phát huy cao độ của Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

V.I. Lênin từng nhấn mạnh: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy"(1). Vai trò quyết định của sức mạnh chính trị-tinh thần trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thể hiện trên các nội dung sau:

Thứ nhất, trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta là động lực to lớn, ưu thế tuyệt đối so với đối phương.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự hội tụ sức mạnh chính trị-tinh thần của dân tộc, ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai miền Nam, Bắc nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa cao cả, thiêng liêng mà Đảng và Bác Hồ đã vạch ra. Với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; giành độc lập cho dân tộc và tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Thắng lợi to lớn của nhân dân ta và sự rối loạn, dẫn đến thất bại nhanh chóng của quân địch trong Chiến dịch Tây Nguyên (3-1975), bắt đầu từ "đòn điểm huyệt" then chốt Buôn Ma Thuột là thực tế sinh động phản ánh "ưu thế tuyệt đối" về chính trị-tinh thần của quân và dân ta so với đối phương. Ưu thế đó ngay cả những người bên kia chiến tuyến cũng phải thừa nhận, ngưỡng mộ.

Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta còn được thể hiện ở chỗ: Trước hết, đó là ưu thế về sức mạnh của những người chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cao cả. Hai là, ưu thế về tinh thần, ý chí quyết tâm chiến đấu của những người dân yêu nước, khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, kiên quyết đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thể hiện rõ ở chân lý "không có gì quý hơn độc lập, tự do". Ba là, ưu thế sức mạnh tổng hợp của đất nước đang trên đà chiến thắng, hội tụ vào chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta không ngừng được tăng cường và chiếm ưu thế tuyệt đối trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh áp đảo kẻ thù trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Từ nhân tố chiếm ưu thế tuyệt đối đó, thế và lực của quân và dân ta không ngừng phát triển, trở thành ưu thế toàn diện áp đảo đối phương, giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là quy luật vận động và phát triển của sức mạnh chính trị-tinh thần trong chiến tranh, nhất là trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Trong đó, sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định sự phát triển và nhân lên sức mạnh chính trị-tinh thần to lớn của quân và dân ta trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Sức mạnh vô địch của quân và dân ta trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã được những người bên kia chiến tuyến thừa nhận, dù rằng sự thừa nhận đó là muộn và chưa đầy đủ. Bơ-ran-man, Giám đốc Cơ quan nghiên cứu kế hoạch chiến tranh không quân của Mỹ đã phải thừa nhận: "Trong khi các nhà lãnh đạo nước Mỹ càng ngày càng đặt nhiều hy vọng vào kỹ thuật để khuất phục Đông Dương, thì các lực lượng kháng chiến lại tìm thấy sức mạnh chủ yếu của họ ở chỗ khác: Trong tiềm lực văn hóa và tinh thần của nhân dân họ"(2).

Thứ hai, sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là nhân tố quyết định làm chuyển hóa tình hình, lực lượng, tạo thế và lực áp đảo quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.

Trong chiến tranh, để giành chiến thắng, nhất thiết phải tạo ra được sức mạnh hơn hẳn kẻ thù. Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã phát huy cao độ ưu thế tuyệt đối là tinh thần yêu nước nồng nàn, tình yêu quê hương tha thiết, khát vọng cháy bỏng và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp hơn hẳn đối phương.

Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta thực sự là "chất keo" dính kết tất cả các nhân tố khác, làm nên sức mạnh tổng hợp để nâng cao sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc; tinh thần quyết chiến quyết thắng... là nội dung cốt lõi trong sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta, được phát huy cao độ tỏa sáng trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Quân và dân ta đã không quản khó khăn, gian khổ, ác liệt, phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo trong chiến đấu, nâng cao hiệu quả sử dụng vũ khí, trang bị để tìm ra cách đánh phù hợp, hiệu quả, giành thắng lợi. Lý tưởng, lẽ sống "cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù", tinh thần "cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc" của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được nâng lên thành cao trào cách mạng, thể hiện rõ ở hành động dũng cảm trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc, đặc biệt là của đồng bào miền Nam, trở thành biểu trưng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh và là nét độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

3. Sức mạnh chính trị-tinh thần là nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đây là cơ sở để chúng ta khẳng định: Một dân tộc đã từng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đã từng làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thì dân tộc ấy nhất định sẽ có đầy đủ ý chí, quyết tâm và sức mạnh để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, kể cả chúng có liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.

Trong bối cảnh tình hình mới, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân vẫn là quan điểm cơ bản, xuyên suốt của Đảng ta cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong đó, sức mạnh cơ bản và vũ khí sắc bén của chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn là sức mạnh chính trị-tinh thần. Xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh chính trị-tinh thần là nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục xây dựng, động viên, khuyến khích và nâng lên tầm cao mới.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có những thuận lợi mới, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Đông Nam Á trở thành địa bàn cạnh tranh quyết liệt về thị trường và tài nguyên; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo của các nước lớn. Việc xuất hiện một số loại hình chiến tranh kiểu mới, như chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, sử dụng sức mạnh mềm thông qua các hoạt động kinh tế, ngoại giao, văn hóa kết hợp với "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ... là sức mạnh nguy hiểm. Trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, xuất hiện những vấn đề phức tạp mới, ảnh hưởng tới việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cùng với sự xuống cấp của các giá trị văn hóa, tình trạng phân cực giàu nghèo... diễn biến phức tạp; các nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo không những không suy giảm mà có mặt còn trầm trọng hơn.

Tình hình trên đòi hỏi chúng ta càng phải coi trọng xây dựng, phát huy sức mạnh chính trị-tinh thần, tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đây là vấn đề lớn, đặc biệt hệ trọng hiện nay, nhất là trong việc hoạch định đường lối và thực hiện chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, trong xây dựng, động viên và phát huy sức mạnh chính trị-tinh thần.

Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI của Đảng khẳng định: Bất luận trong điều kiện hoàn cảnh nào, chúng ta đều phải thấy rõ tính phức tạp của diễn biến tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay để nêu cao ý chí quyết tâm và có biện pháp hữu hiệu để giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng, phương châm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX đã đề ra. Đồng thời, phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta: "Dựng nước đi đôi với giữ nước"; "giữ nước từ khi nước chưa nguy"; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Thực hiện cho bằng được: "Kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị-xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất"(3).

Từ bài học Đại thắng mùa Xuân năm 1975, chúng ta cần thực hiện tốt chiến lược xây dựng, động viên và phát huy nhân tố chính trị-tinh thần trong tình hình mới. Chiến lược đó phải kết hợp chặt chẽ và nằm trong tổng thể chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, là một bộ phận hợp thành sức mạnh tổng hợp quốc gia, gắn bó chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược xây dựng đất nước. Vấn đề cơ bản hiện nay là phải ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ, chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm "yên" lòng dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố "thế trận lòng dân" vững chắc.

Sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại" trong giai đoạn mới của cách mạng đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề mới cần giải quyết trong xây dựng và phát huy nhân tố chính trị-tinh thần, nhân tố cơ bản góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Chúng ta cần thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị, làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội; nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị; nâng cao chất lượng và phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân; đồng thời, chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch để bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

----------

(1).V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977, t.41, tr.147.

(2).Việt Nam - Lương tâm của thời đại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.307.

(3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr.168-169. Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI

      
      

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn

Bạn không có quyền trả lời bài viết
free counters



  • Đoàn Ngọc Khánh

    mobile phone 098 376 5575


    Đỗ Quang Thảo

    mobile phone 090 301 9666


    Nguyễn Văn Của

    mobile phone 090 372 1401


    IP address signature
    Free forum | ©phpBB | Free forum support | Liên hệ | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất