Change background image
LOVE quotion

Bắt đầu từ 4.53' thứ Hai ngày 17/10/2011


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 1: Công bố hồ sơ mật của chính quyền Sài Gòn

Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Bo_doi10

Quân Giải phóng đánh chiếm dinh tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận ở Phan Rang
và bắt sống đại tá tỉnh trưởng Nguyễn Văn Tư lúc 9g30 ngày 16.4.1975

Cùng bạn đọc! Qua loạt bài này, chúng tôi hy vọng với những trích dẫn từ các tài liệu của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam (Hà Nội), của Phủ Tổng thống và Phủ Thủ tướng VN Cộng hòa (Sài Gòn), của cơ quan tình báo CIA (Mỹ) và tình báo Hoa Nam (Trung Quốc) sẽ cung cấp thêm đến bạn đọc thông tin từ nhiều phía về diễn tiến sôi động của cuộc chiến tranh VN dẫn đến sự kiện lịch sử 30.4.1975…

Gần 40 năm sau ngày 30.4, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (TP. HCM) thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước (Bộ Nội vụ) lần đầu tiên cho công bố hồ sơ mật và tối mật của chính quyền Sài Gòn qua một số ấn phẩm, trong đó có hai cuốn:

1. “Về đại thắng mùa xuân năm 1975 - qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2010), do GSTS Phùng Hữu Phú, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, làm Trưởng ban chỉ đạo biên soạn (1). Lời tựa viết:

Thu thập và bảo vệ toàn bộ tài liệu lưu trữ của chính quyền Sài Gòn thời kỳ trước năm 1975, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Bộ Nội vụ muốn chia sẻ một phần "bí mật" về động thái của giới cầm quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong cơn tuyệt vọng khởi từ hiệp định hòa bình tháng giêng năm 1973 cho đến trưa ngày cuối cùng của tháng Tư hai năm sau đó (...) với nhiều tư liệu lần đầu tiên được công bố” (PGS. TS.Hồ Sơn Đài).

2. “Từ chiến dịch xuân hè 1972 đến Điện Biên Phủ trên không” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2013), do TS. Vũ Thị Minh Hương - Cục trưởng Cục văn thư và Lưu trữ nhà nước chỉ đạo công bố (2).

Cả hai cuốn gộp lại dày trên 760 trang, khổ 16 x 24cm, với nhiều tài liệu có đóng dấu “Mật” hoặc “Tối mật” như hồ sơ số 568 - Font ĐIICH (3), “Thượng khẩn” hoặc “Hỏa tốc” (hồ sơ số 241 - Font ĐIICH), cả bản thảo phát biểu viết tay có chữ ký của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (hồ sơ số 572 - Font ĐIICH) - được thâu giữ từ Phủ Tổng thống (dinh Độc Lập) và các cơ quan nội chính, tình báo và an ninh quân đội…

Hồ sơ số 18620 - font PTTg (4) của Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô (Sài Gòn) có đóng dấu "Kín" và "Thượng khẩn" (thảo ngày 14 và 15.4.1975) ghi nhận tình trạng xáo trộn trong quân đội Sài Gòn vào những tuần cuối của cuộc chiến: "Một số quân nhân thuộc các đơn vị phòng thủ hay đồn trú tại địa phương đã xin phép hoặc trốn về thu xếp di tản gia đình và đã không trở lại đơn vị, hoặc vì lưu thông gián đoạn, hay vì gia đình cầm giữ. Một số quân nhân khác vẫn để gia đình tại chỗ - khi cuộc tấn công xảy ra số quân nhân này đã bỏ để về lo bảo bọc gia đình. Các sự kiện trên đưa đến tình trạng tan rã ...".

Văn bản đó do trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, kiêm Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định ký, huấn thị rõ về triển khai gấp rút hệ thống “tử thủ” Sài Gòn với 5 liên khu và các bộ chỉ huy chiến thuật “mỗi bộ chỉ huy do một đại tá làm chỉ huy trưởng với các thành phần tham mưu chuyên trách về hành quân”. Đồng lúc, biện pháp “quân sự hóa 335 khóm hiện hữu tại đô thành được thực hiện với quân số của Bộ Tổng tham mưu cung cấp”. Phân tích thêm: "Hiện trạng dân số đông đảo, hỗn tạp của Đô thành (Sài Gòn) đã gây trở ngại trong việc kiểm soát an ninh, thêm vào đó, đồng bào từ các vùng chiến nạn tản cư đến, cùng với những quân nhân lạc ngũ, vô kỷ luật từ các đơn vị trốn về Thủ đô (Sài Gòn) đã tạo thêm môi trường cho cộng sản xâm lược (chỉ Quân Giải phóng) lợi dụng để xâm nhập đặc công, cán bộ vào Đô thành" - gởi Phủ Tổng thống, Phủ Thủ tướng, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu cùng các đơn vị trực thuộc ngày 17.4.1975.

Vào thời điểm trên, theo hồi ức của đại tướng Võ Nguyên Giáp: ông Lê Đức Thọ đã từ Hà Nội vào Nam công bố Quyết định ngày 6.4.1975 của Bộ Chính trị về thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch Sài Gòn - Gia Định (chiến dịch Hồ Chí Minh), gồm: Văn Tiến Dũng (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy), Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện (Phó tư lệnh), Lê Quang Hòa (Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị), Lê Ngọc Hiền (Quyền Tham mưu trưởng, chuyên trách tác chiến), Nguyễn Văn Linh (Phó Bí thư Trung ương Cục, đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng, nhất là Sài Gòn), Võ Văn Kiệt (Ủy viên thường trực Trung ương Cục, chỉ đạo việc tiếp quản thành phố). Đúng 10 ngày sau (16.4.1975), Quân Giải phóng đánh chiếm Phan Rang, bắt sống đại tá tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Văn Tư (lúc 9 giờ 30), bắt chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang - Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân và trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phó tư lệnh Quân đoàn 3 (lúc 10 giờ), cùng hàng nghìn sĩ quan binh lính Sài Gòn. Ngay sau đó Bộ Tổng tham mưu lệnh đưa tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang từ Phan Rang ra Hà Nội bằng máy bay gấp. Ra đó, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được đưa vào gặp các sĩ quan Cục tác chiến để trả lời một số câu hỏi.

Về hướng hiểm yếu để tiến công Sài Gòn, tướng Nghi nhận định “tiến công từ Gò Dầu hạ - Trảng Bàng” là dễ chiếm thế thượng phong nhất (5). Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cũng nắm được phương thức bố trí “các kho đạn chính ở Nhà Bè và Cát Lái (Long Bình chỉ là kho tiếp liệu)” và Sài Gòn “dựa chủ yếu vào lực lượng không quân, nên các sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa và Cần Thơ giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là sân bay Biên Hòa, nơi đậu các máy bay cường kích F5 và A37” (Võ Nguyên Giáp, sđd). Được hỏi lý do thất bại nhanh chóng của quân đội Sài Gòn tại mặt trận miền Trung và Phan Rang, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nói thẳng:

- Chúng tôi thiếu tiếp liệu và thiếu thời gian. Nếu các ông đánh chậm một tháng nữa thì chưa biết sẽ ra sao !

Giao Hưởng

Chú thích:

(1) Ban chỉ đạo biên soạn: TS Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc - Tổng biên tập và TS. Khuất Duy Kim Hải, Phó giám đốc - Phó Tổng biên tập NXB Chính trị Quốc gia, TS. Vũ Thị Minh Hương, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước thuộc Bộ Nội vụ, Ô. Phạm Việt, Trưởng ban Sách Nhà nước và Pháp luật (NXB Chính trị Quốc gia) và Ô. Nguyễn Xuân Hoài, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (sau đây viết tắt: Trung tâm).

Cố vấn khoa học: PGS. TS. Hồ Sơn Đài (đại tá - Trưởng phòng khoa học Công nghệ - Môi trường, Bộ Tham mưu - Quân khu 7) và PGS. TS. Hà Minh Hồng - Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.

(2) Chỉ đạo biên soạn: TS. Nguyễn Xuân Hoài - Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia II. Ban biên soạn: TS. Phạm Thị Huệ, Hà Kim Phương, Nguyễn Thị Vui, Lê Vị.

(3) Font ĐIICH (Phông Đệ nhị Cộng hòa - Sài Gòn). Tất cả số ký hiệu của hồ sơ dẫn trong loạt bài này theo đúng với số ký hiệu ghi trên tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm.

(4) Font PTTg (Phông Phủ Thủ tướng - Sài Gòn).

(5) Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - 30.4.1975 Bản hùng ca thế kỷ 20, NXB Lao Động, Hà Nội 2006, tr. 227.  
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 2: Tại sao thủy quân lục chiến Mỹ và binh lính Sài Gòn suýt bắn nhau vào giờ chót?

Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Nhung_10

“Giờ chót” ở đây nhằm chỉ thời hạn căng thẳng của cuộc di tản 6.000 người Mỹ khỏi Việt Nam vào các tuần lễ cuối cùng trước ngày Sài Gòn thất thủ…  

Tại sao hỗn loạn lại diễn ra quá đỗi nhanh chóng ?

Hồ sơ số 31559 - Font PTTg (lưu trữ phát biểu của tổng thống Thiệu):

“Nhiều tỉnh đã xảy ra chuyện đồng bào lũ lượt kéo hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn đi. Binh sĩ vô kỷ luật bắn phá, cướp bóc, trong đó có đặc công Cộng sản trà trộn, rỉ tai nói với đồng bào: “Đi lại chiếm phi trường đi, để có tàu bay mà đi (di tản); đồng bào đi lại chiếm hải cảng đi để có tàu thủy mà đi; đồng bào cứ ra giữa phi đạo ngồi đi, rồi có tàu bay mà đi”.
Giành giựt nhau, đạp nhau, chém giết nhau, bắn giết nhau để rồi rốt cuộc không ai đi được hết. Trong sự hỗn loạn, nhà nước không tổ chức được cuộc di tản bằng máy bay, nhà nước không tổ chức được cuộc di tản có trật tự bằng tàu thủy, để trễ nải 3, 4 ngày sau. Trong lúc đó binh sĩ cũng không tổ chức được chiến đấu, Cộng sản nó sáp lại gần, than ôi, lúc đó đã trễ quá rồi (…) cho nên bây giờ hàng ngàn đồng bào còn kẹt lại những chỗ như Đà Nẵng, Qui Nhơn chẳng hạn”.

Phát biểu trên (4.4.1975) cho thấy sợ hãi quá mức đã gây nên sức ép tâm lý trong dân chúng và binh lính Sài Gòn, dẫn đến hỗn loạn. Đại sứ Mỹ Martin nhận định (tương tự): “Yếu tố đáng sợ nhất chính là sự hoảng hốt. Sự hoảng hốt có thể là kẻ giết người, là kẻ phá đổ, và là yếu tố làm tê liệt mọi việc mà ta cần phải tránh với bất cứ giá nào vào lúc đó”.
Câu ấy của Martin được TS. Nguyễn Tiến Hưng (cố vấn tổng thống Thiệu) trích dẫn trong cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” (xuất bản lần đầu năm 2005 bởi cơ sở Hứa Chấn Minh - San Jose, CA).

Đến 16.4.1975 Phan Rang thất thủ (xem kỳ 1). Qua hôm sau 17.4.1975, đại sứ Martin nhận mật điện từ Mỹ:

Người nhận: Martin
Độ mật: Tối mật
“Chúng tôi vừa họp xong một cuộc họp liên bộ để duyệt xét tình hình miền Nam Việt Nam. Ông Đại sứ phải biết rằng trong phiên họp của Ủy ban Đặc nhiệm Washington hôm nay, hầu như không có ai ủng hộ việc di tản người Việt và việc dùng quân lực Mỹ yểm trợ bất cứ việc di tản (người Việt) nào. Quan điểm chung của các giới quân sự, Bộ Quốc phòng và CIA là phải rút ra cho lẹ và ngay lập tức”.

(“We have just completed an interagency review on the state of play in South Vietnam. You should know that at the WSAG (Washington Special Action Group) meeting today, there was almost no support for the evacuation of Vietnamese, and for the use of American force to help protect any evacuation. The sentiment of our military, DOD (Department of Defense) and CIA colleagues was to get out fast and now”).

Để bạn đọc tiện theo dõi các diễn tiến đầy kịch tính trong các bài tới, ở cuối bài này, chúng tôi trích giới thiệu trước đoạn TS. Hưng viết về cuộc tháo chạy do Nhà Trắng lên kế hoạch điên rồ (crazy plans) sau:

“Để giúp cho việc ra đi được yên ổn và không tổn hại nhiều đến uy tín của mình, Hoa Kỳ đã có 4 dự định chính: 1. Mang thủy quân lục chiến vào Sài Gòn để phụ trách di tản 6.000 người Mỹ và một số rất ít người Việt Nam liên hệ. 2. Tác động với phía Việt Nam để tránh tình trạng hỗn loạn vào giờ phút chót. 3. Nhờ cậy Liên Xô dàn xếp với Hà Nội để không cản trở việc di tản. 4. Sắp xếp một giải pháp chính trị để có một thời gian chuyển tiếp”.
Martin: “Người Việt Nam sẽ cho rằng Hoa Kỳ mang thủy quân lục chiến vào để di tản người Mỹ và mặc kệ số phận người Việt ở đây - đó là một hành động phản bội trắng trợn của Hoa Kỳ (…) tình báo của chúng tôi đã có rất nhiều những báo cáo chính xác là nếu chúng ta mang số đông thủy quân lục chiến vào để di tản người Mỹ, chúng ta sẽ phải chiến đấu để mở đường tháo chạy. (Lúc ấy) không quân Việt Nam (không quân Sài Gòn) sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình (chở người Mỹ ra đi), vì chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho Bắc Việt”. Và một quan chức ở Sài Gòn nói thẳng với Kissinger rằng: “Nếu các ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các ngài có thể phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội miền Nam (quân đội Sài Gòn) để mở lối ra”…

Để gỡ rối, giám đốc CIA Mỹ W. Colby nói gì và làm gì ?
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 3: William Colby với mật mã O.F.W: “cuốn theo chiều gió”...

Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Hinh_210

Ngày 28.4.1975 là “một ngày dài hơn thế kỷ” của Nhà Trắng (Washington) với hai cuộc họp khẩn cấp, kết thúc bằng mệnh lệnh của tổng thống Ford về đợt di tản cuối cùng khỏi Sài Gòn, bắt đầu từ 10 giờ 51 sáng hôm sau…

William Colby - Giám đốc Cục tình báo trung ương Mỹ CIA, từng có nhiều năm trực tiếp chỉ đạo hoạt động tình báo vùng Viễn Đông và Việt Nam, cố vấn Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam, sáng 28.4 đã vội vã bước vào căn phòng đặc biệt nằm dưới tầng ngầm Nhà Trắng.

Phòng này không trổ cửa sổ ra bên ngoài, mà được kiến trúc liên thông với các phòng đảm trách an ninh tình báo bên trong tòa nhà. Ở đó, các nhân vật chủ chốt trong nhóm “tháo gỡ khủng hoảng” và “phản ứng nhanh” mang tên: Nhóm hành động đặc biệt của Washington (Washington Special Action Group - WSAG) ngồi sẵn, như: Jim Schlesinger - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Bill Clements, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; George Brown, Tổng tư lệnh quân đội. Có mặt cả Henry Kissinger - Cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia; Brent Scowcroft, Phó Cố vấn An ninh quốc gia…

Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Willia10
William Colby - Giám đốc Cục tình báo trung ương Mỹ C.I.A

Colby khai mạc cuộc họp theo đúng thể thức và cảnh báo ngay về tình hình nguy ngập của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, đại để :

- Hiện chính quyền của tướng Dương Văn Minh đã không theo kịp đà phát sinh của thời cuộc với nguy cơ lớn nhất là Cộng quân (quân đội Cộng sản Việt Nam) đang tiến đến cửa ngõ Sài Gòn và sẽ đặt chân vào nội đô trong vòng ngày mai hoặc có thể ngay trong hôm nay…

Vì Quân giải phóng đã và đang đánh chiếm các mục tiêu quan trọng theo 5 hướng tiến về Sài Gòn. Ngay hạ tuần tháng 4.1975, theo tài liệu Quân ủy Trung ương, các lực lượng lớn đã lần lượt điều động vào vị trí tiến quân: 1. Ở hướng bắc: Quân đoàn 1 đã có mặt ở khu vực nam Sông Bé. 2. Ở hướng tây bắc: Quân đoàn 3 tiến về Dầu Tiếng (về sau tràn ngập căn cứ Đồng Dù, bắt sống tư lệnh sư đoàn 25 bộ binh Lý Tòng Bá). 3. Ở hướng tây: Đoàn 232 áp sát tuyến sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. 4. Ở hướng nam: Trung đoàn 88 và Trung đoàn 24 được tăng cường thêm Trung đoàn 271b đứng chặn ở Cần Giuộc. Sư đoàn 5 và Sư đoàn 8 áp sát đường số 4 đoạn từ Tân An đến Cai Lậy, khống chế Mỹ Tho. Đồng chí Lê Đức Anh, Phó tư lệnh Miền, Phó tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch, trực tiếp chỉ huy hướng tây và hướng nam. 5. Ở hướng đông: Quân đoàn 4, sau khi giải phóng Xuân Lộc, áp sát Trảng Bom. Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 và Lữ đoàn 52 (Quân khu 5) tiến sát Long Thành, Vũng Tàu, Nước Trong, Bà Rịa. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân phía đông, nay là Phó tư lệnh chiến dịch chỉ huy hướng này.

Tất cả 6 trung đoàn đặc công và hàng chục đội biệt động đã sẵn sàng từ vùng ven đến nội thành”.

Xét diễn tiến, đã quá bất lợi, nên Colby yêu cầu di tản gấp rút tất cả người Mỹ. Nhưng đại sứ Mỹ Martin ở Sài Gòn còn chần chừ, trì hoãn, vì hy vọng sẽ thương lượng với “Bắc Việt về một giải pháp hòa bình” vào giờ cuối. Nên Colby cùng Nhóm hành động đặc biệt của Washington gắng đợi thêm. Nhưng “phép lạ” đã không xảy đến. Vì :

Cuối chiều hôm ấy, sau cuộc họp bất thường ở Nhà Trắng, lúc 16 giờ 5 phút 28.4 - giờ Washington (tức 4 giờ 5 phút, sáng 29.4 ở Sài Gòn), Quân giải phóng từ trận địa pháo Nhơn Trạch bắn hơn 300 quả đạn 130mm vào phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy máy bay C130, làm nổ kho nhiên liệu, đào lên xới xuống đường băng với những vết đạn pháo lỗ chỗ nên máy bay không cất cánh được và dĩ nhiên cuộc di tản theo đường Tân Sơn Nhất bế tắc.

Nhận tin, tổng thống Ford triệu tập ngay cuộc họp bất thường với Hội đồng An ninh quốc gia lúc 19 giờ 30 tối 28.4 (giờ Washington) và quyết định triển khai kế hoạch di tản chỉ bằng trực thăng (chứ không bằng máy bay vận tải lớn ở Tân Sơn Nhất nữa) bốc đi từ nóc Tòa đại sứ và một số cao ốc ở trung tâm Sài Gòn. Đợt di tản cuối cùng này mang mật mã O.F.W, viết tắt của mật danh “Operation Frequent Wind”, có nghĩa đen: “Cuộc hành quân gió nhanh”- song người ta vẫn thích diễn dịch là: “Cuộc hành quân cuốn theo chiều gió”cho hợp với tình cảnh lúc ấy. Sau cuộc họp chỉ vài giờ, tổng thống Ford hạ lệnh bắt đầu đợt O.F.W ngay trong đêm 28.4.1975, lúc 22 giờ 51 - giờ Washington (nhằm 10 giờ 51 sáng 29.4.1975 - ở Sài Gòn).

Colby viết trong hồi ký, khi O.F.W cất cánh có “đám đông người Việt Nam tìm cách nhập vào đợt di tản của người Mỹ” đưa đến tình trạng hỗn loạn. Hôm sau nữa, ngày 30.4:

“Một số sĩ quan người Việt đã tự bắn vào đầu tự vẫn, người thì vì danh dự bị hoen ố trước thất bại, người thì lo sợ trước những nhục hình tàn bạo đang chờ đợi họ trong những “trại cải huấn” của cộng sản. Còn ở rất xa đấy, tại Washington, tôi không có cách nào để cứu họ. Suốt ngày hôm ấy, tôi đã sống trong một tâm trạng cay đắng ê chề khi cảm thấy mình bất lực trước thảm kịch của những sinh mạng bị mất đi và của biết bao năm nỗ lực của cả người Việt Nam và người Mỹ đã từng đổ ra để hy vọng biến Việt Nam thành một đất nước tự do” (William Colby - Một chiến thắng bị bỏ lỡ, bản dịch của Nguyễn Huy Cầu, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2007, tr. 14).

Đến 3 giờ 15 ngày 30.4, lúc trời chưa sáng, một phi công Mỹ lái chiếc CH-46 đáp xuống nóc tòa đại sứ chuyển bức thư viết tay cho ông Martin do đô đốc Gayler gửi, cho biết Gayler được lệnh “chỉ gửi thêm 19 trực thăng, và không gởi thêm nữa. Đại sứ Martin sẽ phải ra đi chuyến cuối cùng (trên chiếc trực thăng thứ 19). Sau này ông Gayler tiết lộ là ông đã có thẩm quyền để áp giải (cưỡng bức) nếu ông đại sứ (Martin) cưỡng lại lệnh tổng thống” (David Butler, dẫn theo Nguyễn Tiến Hưng trong sđd. Kỳ 2). Đúng là trước đó đại sứ Martin đã “cưỡng” lại lệnh “di tản nhanh chóng người Mỹ” của tổng thống Ford. Mục đích của Martin nhằm có thì giờ để đưa thêm nhiều người Việt ra đi hơn nữa và tránh khả năng không quân Sài Gòn trong lúc tức giận vì bị bỏ rơi có thể dội bom xuống tòa đại sứ…

Giao Hưởng
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 4: TS. Nguyễn Tiến Hưng vạch trần “kế hoạch di tản điên rồ mang mật danh: Talon Vise” của Mỹ
Đăng Bởi Một Thế Giới - 07:02 26-04-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Cuoc_di_tan_o_da_nang_RRFF
Cảnh di tản từ Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung vào phía Nam đầu tháng 4.1975.
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark

Hơn 3 sư đoàn thủy quân lục chiến (TQLC Mỹ) sẽ bất ngờ ập đến Sài Gòn bắn phá mở đường để đánh chiếm phi trường Tân Sơn Nhất và bảo vệ Tòa đại sứ Mỹ nhằm thiết lập “một hành lang di tản” đưa toàn bộ người Mỹ còn lại ở Sài Gòn ra đi gấp rút…

Có thể bạn quan tâm



[size]
Cuộc tiến quân “điên rồ” trên được bàn định và phác thảo bởi Ngũ Giác Đài, đứng đầu là J. Schlesinger (Bộ trưởng Quốc phòng); Bill Clements (Thứ trưởng Quốc phòng); William Colby (Giám đốc CIA) và một số quan chức cao cấp khác của Nhà Trắng…
[/size]
Họ chủ trương, cùng lúc với cuộc đổ bộ của TQLC, là triển khai lực lượng không quân đặc nhiệm với nhiều phi đội máy bay phản lực (sẽ đánh bom sát phạt khi cần) quần thảo và gầm rú, uy hiếp bầu trời Sài Gòn suốt đợt di tản.
Dưới mặt biển, 4 hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway và Interprise(kéo theo nhiều tàu hộ tống khác có 2.200 TQLC bảo vệ) sẽ áp sát vùng biển Nam Việt Nam, sẵn sàng nã pháo vào các vị trí “nhạy cảm và cần thiết” ở trung tâm Sài Gòn nếu lực lượng TQLC trên bờ yêu cầu.
Khi phối hợp tác chiến giữa TQLC (trên bộ) với không quân (trên không) và hạm đội 7 (ngoài khơi) đã “giáp vòng”, một “cầu hàng không” gồm hàng chục (khả năng có đến hàng trăm) chiếc trực thăng - chủ lực là loại lớn CH-53 có sức chứa 50-60 người mỗi chiếc - được huy động để bay ra bay vào Sài Gòn liên tục nhằm chở hết 6.000 người Mỹ, lần lượt đáp xuống các hàng không mẫu hạm kể trên, với phương châm: “tốc hành”, “nhanh và gọn”… Mọi việc nhằm mục đích không để những người Mỹ và gia đình của họ “lọt vào tay cộng sản” - còn số đông người Việt từng cộng tác với Mỹ di tản được hay không là “vấn đề thứ yếu”…
Trên đây là tóm lược kế hoạch mang mật danh Talon Vise - một trong những “kế hoạch di tản điên rồ” (crazy plans) của Mỹ - lần đầu tiên được TS. Nguyễn Tiến Hưng đưa ra ánh sáng công luận, qua cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” (sđd Kỳ 2) ấn hành cách đây 10 năm (2005) - song đến nay (2015 và cả mai sau) vẫn còn nguyên giá trị tư liệu: “hy vọng những thế hệ con cháu của đoàn người di tản là những người Mỹ mai đây sẽ nắm địa vị quyền hành, sẽ không bao giờ đối xử như vậy đối với những đoàn người di tản từ các đồng minh khác trong một tình huống nào đó, như từ Iraq, Afghanistan, Đài Loan, Đại Hàn, khi đồng minh của họ cuốn gói ra đi” (Nguyễn Tiến Hưng).
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Hai_quan_my_day_truc_thang_xuong_bien_uxaz
Hải quân Mỹ đẩy một chiếc trực thăng từ tàu Blue Ridge xuống biển để lấy chỗ cho các trực thăng khác đáp xuống…
 
Những “kế hoạch di tản điên rồ” như kiểu Talon Vise được Washington hối hả vạch ra từ những tuần cuối tháng 3.1975, trong bối cảnh cuộc tiến quân “thần tốc của phe Cộng sản”  đang tăng cường độ: Ngày 25.3: Bộ Chính trị chủ trương tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất để giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa - Ngày 26.3: giải phóng TP. Huế - Ngày 29.3: giải phóng Đà Nẵng (…) Các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kontum nhộn nhịp khác thường. Các loại máy bay lên thẳng nặng, nhẹ, các loại  máy bay chở khách đặc biệt của ta đều được huy động, không những để chở người, chở đạn, chở vũ khí, chở sách, báo, phim ảnh, tranh vẽ, các bản nhạc… mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn - Gia Định vừa mới in xong (…) Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn, các cảng Hải Phòng, cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng, cũng ngày đêm nhộn nhịp” (Văn Tiến Dũng - Đại thắng mùa Xuân). Những hoạt động đó ít nhiều được CIA thâu thập, kết hợp với nhận định và chủ trương của Bộ Quốc phòng Mỹ, để hình thành nên “kế hoạch điên rồ”. Sau đó nội dung các “crazy plans” được Nhà Trắng và Ngũ Giác Đài “thông báo nhanh” đến đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn để tham cứu.
Và Martin “hết hồn” khi biết tổng thống Ford cùng cấp lãnh đạo ở Washington muốn dùng “sức mạnh quân sự” cho một giải pháp “di tản hết” người Mỹ. Lập tức, Martin gởi chính phủ Mỹ và Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger bức mật điện khá dài, khẳng định:“Lệnh di tản người Mỹ đột ngột có thể gây bạo động ở Sài Gòn. Nếu không giữ bình tĩnh mà lại đưa thủy quân lục chiến vào đây thì có thể gây sự nổi giận không thể lường được (…). Tôi nhắc lại một lần nữa là sẽ có náo động lớn nếu gửi quân đội Mỹ vào Sài Gòn”. Những lời thẳng thắn đó phù hợp với bình luận của tờ Newsweek (28.4), rằng: Kế hoạch phòng hờ để bảo vệ (di tản) người Mỹ được soạn thảo ra dường như là để“đối phó với những người lính miền Nam (quân đội Sài Gòn) đang liều mạng tìm lối thoát hoặc uất hận vì bị bỏ lại, còn nhiều hơn  là đối phó với đoàn quân cộng sản đang tiến tới !”.
Kể cả sau ngày 30.4.1975, Martin đã một lần nữa trình bày trước Quốc hội Mỹ (1976):“Tôi cho rằng mang quân đội Mỹ vào là một sai lầm lớn, vì, thưa quý vị, nếu quý vị đứng vào hoàn cảnh của người Việt Nam thì quý vị sẽ phản ứng như thế nào?”.
Khi bị (Quốc hội) chất vấn là tại sao ông đại sứ (Martin) không yêu cầu Tổng thống (Ford) cho di tản trước ngày 29.4 (ngày Tân Sơn Nhất bị pháo kích), Martin trả lời:“Không, vì theo đánh giá kỹ nhất của tôi, nếu làm sớm hơn sẽ có nguy cơ là xảy ra một tình trạng hỗn loạn với kết quả là một số rất đông người Mỹ sẽ chết. Nó sẽ dẫn tới một sự khủng khiếp nặng nề nhất, đó là nhu cầu phải đưa quá nhiều quân lực Mỹ vào, và chúng ta sẽ phải chiến đấu với quân đội miền Nam (Sài Gòn) để mở đường tháo lui”.
TS. Hưng nhận định:  “Ngày nay ta mới hiểu hết được tâm tư của đại sứ Martin. Rõ ràng là thoạt đầu Washington chỉ muốn di tản nhân viên tòa đại sứ Mỹ, cơ quan Tùy viên Quốc phòng DAO, công dân Mỹ và một số rất ít người Việt làm việc cho Mỹ mà thôi. Và phương thức di tản thì lại quá ư là nguy hiểm. Ta thử tưởng tượng: nếu Mỹ đem từ 3 tới 6 sư đoàn vào để chỉ di tản người Mỹ và bà con (của họ), trước hết là TQLC chiếm đóng phi trường Tân Sơn Nhất, rồi Tòa đại sứ Mỹ; sau đó trực thăng và từng đoàn xe Mỹ chở người tới phi trường (và cũng như vậy, di tản từ các địa điểm khác như Biên Hòa, Cần Thơ). Khi thấy sự phản bội quá lộ liễu như thế, liệu các đơn vị quân đội, cảnh sát, nghĩa quân, địa phương quân, dân chúng Việt Nam Cộng hòa (miền Nam) có để yên hay không ? Vào đầu tháng 4, sau những buổi họp tại dinh Độc Lập và Phủ Thủ tướng, tôi cũng đã bắt đầu nghe thấy hai chữ “đ.m” (chửi Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam - GH)”… (còn nữa).
Giao Hưởng
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 5: Đại sứ Mỹ G.Martin giải thích: Vì sao phải ưu tiên di tản phi công VN trước?
Đăng Bởi Một Thế Giới - 05:27 27-04-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Phi_cong_nguyen_cao_ky_KPTU
Tư lệnh không quân VNCH - tướng Nguyễn Cao Kỳ
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark

Không quân VNCH thời còn sung sức có quân số hơn 60.000 người - gồm 5 sư đoàn tác chiến với hơn 500 phi cơ các loại - trong đó có phi đoàn tình báo kỹ thuật và biệt đoàn đặc vụ 314...

Có thể bạn quan tâm



[size]
...Ở giai đoạn tan rã (4.1975), lực lượng còn lại của quân chủng này vẫn làm đại sứ Martin phải nhiều đêm mất ngủ, vì nếu họ quay mục tiêu oanh kích về phía người Mỹ trong những giờ cuối của cuộc chiến, hậu quả sẽ ra sao ? 
Vì lẽ đó, Martin phản ứng quyết liệt về “những kế hoạch điên rồ” (xem Kỳ 4) của Nhà Trắng, thuyết phục để tổng thống Ford đồng ý với mình về chủ trương di tản người Việt, đồng thời xét lại các “crazy plans” đầy bất trắc.
[/size]
Cuối cùng, TT. Ford ngả về phía Martin và triệu tập phiên họp kín tại Nhà Trắng với những thành viên được chỉ định trước, trong đó có các thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban Đối ngoại, để cảnh báo về hậu quả tiêu cực của phương án “chỉ di tản người Mỹ” và “bỏ mặc người Việt” (hoặc di tản người Việt với số lượng ít ỏi, chiếu lệ). Giả thử phương án kia thực thi, sẽ không tránh khỏi phản ứng quyết liệt của không quân Nam Việt Nam. TT. Ford trong hồi ký của mình (xuất bản 1979), nhắc lại:
- Chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản vội vã sẽ có những hậu quả trầm trọng. Một tình trạng hoảng hốt lớn tại khu thủ đô miền Nam (Sài Gòn) sẽ có thể phát sinh, và trong sự chua cay là đã bị phản bội, quân đội miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) có thể quay súng (bắn) vào người Mỹ !.
Nguyễn Tiến Hưng viết, TT. Ford nói rõ thêm: “Nếu rút hầu hết người Mỹ ra cùng một lúc sẽ làm cho người Việt Nam nghĩ rằng Mỹ đang tháo chạy, sẽ có thể gây ra những cuộc tấn công vào người Mỹ”. Cuối cuộc họp, TT. Ford yêu cầu các nghị sĩ có mặt đừng để báo chí biết “phiên họp chỉ bàn tới chuyện di tản” - mà cần thông báo chung chung là: “phiên họp bàn chuyện ổn định tình hình tại miền Nam Việt Nam” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2).
Sau phiên họp trên, từ Sài Gòn, Martin đưa khá nhiều phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa và gia đình của họ ưu tiên ra đi trước: “tất cả khoảng 2.000 người tới phi cảng Atapao ở Thái Lan” - với mục đích: “giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ (của không quân Sài Gòn) với lực lượng Mỹ”. Martin cảnh cáo “nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ lên đầu những người Mỹ còn lại”. Ông giải trình trước Quốc hội:
- Không quân Việt Nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình (máy bay chở người Mỹ di tản khỏi Sài Gòn - GH) khi chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho (quân đội) Bắc Việt (Graham Martin - Testimony, tr. 548 - chú thích của Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2).
Martin nhận định phi công là phần tử nắm trong tay phương tiện cơ động nhanh chóng và nguy hiểm nhất (máy bay) và có cơ hội cũng như điều kiện để trút “uất hận” lên bất cứ nơi nào tập kết người Mỹ (chuẩn bị di tản) và nếu phi công Việt Nam Cộng hòa bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ thì “chắc chắn là sẽ có nhiều trong số 6.000 người Mỹ phải chết, thêm vào đó là số thương vong không thể lường của quân đội hai bên - dĩ nhiên (lúc ấy) không lực từ Đệ thất hạm đội (hạm đội 7) sẽ vào uy hiếp (đánh trả), dẹp tan hết mọi cuộc tấn công. Nhưng (hậu quả) là Sài Gòn sẽ đổ nát như Baghdad và bao nhiêu người dân (vô tội) sẽ là nạn nhân?” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2). Martin giải bày:
- Tôi có một sự lo nghĩ trong lòng nhưng nó đã được giải quyết trước ngày cuối cùng của cuộc di tản, đó là một phần đông không quân Việt Nam đã được bay sang căn cứ Utapao ở Thái Lan, như vậy là đã di chuyển được khả năng (chiến đấu) của một số phi công chống đối trên bầu trời - họ có lẽ là phần tử uất hận nhất trong các quân chủng(Graham Martin, Testimony, tr. 586 - NTH).
Những lời trên của Martin phù hợp với hồi ký của tướng Nguyễn Cao Kỳ (từng làm Tư lệnh Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa):
“Cộng sản biết rằng mất sân bay thì Sài Gòn cũng mất” nên đã mở đầu đợt đánh chiếm Sài Gòn vào giai đoạn đỉnh điểm bằng động thái đánh bom Tân Sơn Nhất: “Ngày 28.4.1975, quả bom hạng nặng đầu tiên rơi cách nhà tôi 300 mét. Lúc ấy có gần 400 người tụ tập ở đó, hay trên những bãi đất xung quanh. Họ là những gia đình binh sĩ xin chỗ máy bay (để rời Việt Nam). Nhiều người quyết định ngủ đêm ngay tại văn phòng, hoặc những ngôi nhà gần bên. Quang cảnh giống như một trại tị nạn. Lúc những quả bom đầu tiên làm rung chuyển nhà tôi, một anh phi công chạy vào phòng khách kêu lớn: “Tôi cất cánh đây !”.
Nguyễn Cao Kỳ cũng hét: “Đồng ý. Đi đi”!
Thế là anh phi công kia lao đến chiếc máy bay gần nhất. Cùng lúc, tướng Kỳ phóng lên một chiếc xe jeep cùng với thiếu tá thân cận của mình nổ máy chạy ra đường băng để xem thiệt hại tới mức nàoTướng Kỳ thuật lại, lúc ấy:
“Căn cứ vắng vẻ im lặng, khác lạ, trái ngược hẳn với quang cảnh nhộn nhịp thường ngày. Ai nấy đều chạy vào hầm trú ẩn và xe jeep của chúng tôi là vật duy nhất mà người ta thấy đang di chuyển (trên sân bay). Các phi công cộng sản chắc đã phát hiện ra chúng tôi, vì lẽ các máy bay của họ ở trên cao lượn vòng vòng rồi bắt đầu bắn xuống chúng tôi”.
Kỳ xuống xe, nhảy vào một cái hố tránh đạn đào sẵn bên đường, nhìn lên ông thấy “lửa tóe ra từ những họng súng nhằm vào xe jeep - hàng chục máy bay của chúng tôi bị phá hủy trên mặt đất”. Kỳ quay về: “Điện bị cắt đứt. Chúng tôi không liên lạc với Bộ tổng tham mưu được nữa. Những người ở trong nhà phải thắp nến ăn cơm”. Rồi ông lại quay đi, đến Bộ tư lệnh Không quân, để thấy “một cảnh tượng cực kỳ hỗn loạn bày ra trước mắt, toàn bộ Bộ tư lệnh gồm khoảng 100 sĩ quan, tướng, đại tá và thiếu tá, tập hợp ở văn phòng tư lệnh. Tôi nhận thấy có cả vài tướng lục quân nữa. Ông tư lệnh không quân (trung tướng Trần Văn Minh - GH) cho tôi biết là người Mỹ đã cho lệnh di tản tất cả máy bay F5 sang Thái Lan và Philippines, hiện bộ tham mưu của ông ta đang chờ tại văn phòng này để người Mỹ lo liệu việc di tản”.  (còn nữa).
Giao Hưởng
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 6: Oliver Todd với các chuyến bay cuối cùng trên tòa đại sứ
Đăng Bởi Một Thế Giới - 07:39 28-04-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Di_tan_tai_toa_dai_su_my_VIWR
Trực thăng thủy quân lục chiến Mỹ di tản những người cuối cùng ở Sài Gòn
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark

Rạng sáng 30.4.1975, đại sứ Martin cũng phải bước lên chiếc trực thăng mang tên Lady Ace 09 (ghi rõ ở hai bên sườn máy bay) rời Tòa đại sứ, để lại dưới đất hơn 420 người Việt đang ngóng lên trời để chờ những chuyến trực thăng khác không bao giờ tới...

Có thể bạn quan tâm




Những người Việt bị bỏ rơi vẫn tiếp tục áp sát vào tiền sảnh của Tòa đại sứ, để rồi bị“lính thủy Mỹ dùng roi da để trấn áp”. Quá sốc, một số tài xế xe tải nổ máy và nhấn ga lao thẳng vào cổng. Bấy giờ trong sân số đông người Việt bị kẹt lại đang đứng thẩn thờ, gần như tuyệt vọng. Họ hiểu rằng không còn cơ hội ra đi nữa…
Tình cảnh và các chi tiết trên được ghi lại bởi Oliver Todd - một nhà báo kỳ cựu từng trải nghiệm những tác nghiệp của mình từ chiến khu Việt Bắc (thời Pháp), đến những giờ phút mong manh nhất ở Tòa đại sứ Mỹ (Sài Gòn 1975). Oliver Todd viết (Lê Tuấn dịch):
* 3 giờ 15 phút, chiếc trực thăng CH-46 đã hạ cánh xuống nóc sứ quán. Viên phi công đưa ra một thông báo: “Dựa trên báo cáo với con số tổng cộng là 726 người được di tản, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương được phép cử ngay 9 máy bay trực thăng, không được quá con số này”. Những từ “không được quá” đã được nhấn mạnh tới hai lần. “Tổng thống chờ đợi ông đại sứ Martin sẽ đi chuyến trực thăng cuối cùng… Thân ái !”.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ cũng mong chuyến “trực thăng cuối cùng” sẽ cất cánh vào lúc 3 giờ 45 phút. Martin được yêu cầu phải thể hiện hết trách nhiệm đối với bức điện của Phủ tổng thống Hoa Kỳ. Polgar (đứng đầu tình báo Mỹ CIA tại Sài Gòn) báo trước là ông ta sẽ ngừng tất cả mọi giao dịch vào lúc 3 giờ 20 phút.
* 3 giờ 30 phút: máy bay chỉ huy C-130 bay lượn vòng quanh Sài Gòn và gửi bức mật mã (…): Từ bây giờ sẽ chỉ đưa người Mỹ đi di tản nữa mà thôi. Ông đại sứ Martin sẽ lên chiếc máy bay chỉ dùng cho ông. Kissinger cũng gọi điện cho Martin: “Ông và các anh hùng của ông bắt buộc phải về nhà ngay !”.
Nhà Trắng nhận bức điện của Martin: “Chúng tôi đề nghị được chấm hết nhiệm vụ vào lúc 4 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 - giờ Sài Gòn, cần thiết phải phá hủy các máy móc giao dịch liên lạc. Đây là bức điện cuối cùng của sứ quán Mỹ tại Sài Gòn”.
* 4 giờ 42: chiếc trực thăng CH-46 mang tên “Lady  Ace 09” hạ cánh xuống nóc tòa đại sứ. Viên phi công trình một mệnh lệnh của tổng thống Ford: “Ông đại sứ phải lên ngay chiếc Lady Ace 09 !”. Martin cùng với người tùy viên thông tấn, Polgar và đại tá Jacobson, lên máy bay. Nếu ông đại sứ từ chối không chịu ra đi vào lúc đó thì lại đã có một mệnh lệnh khác của đô đốc hải quân hạm đội Thái Bình Dương ký, là: “phải bắt ngay Martin đưa lên máy bay” (Oliver Todd - Tháng 4 ác liệt, Lê Tuấn dịch, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2004, tr. 267-269).
Oliver Todd tường thuật tiếp:
* 5 giờ 30 phút: 200 người Mỹ, trong đó có 170 lính thủy còn chờ ở sứ quán. Nhiều giờ trôi qua. Người lính thủy cuối cùng trèo lên cầu thang. Họ đã đóng chặt cửa, lại còn chốt thêm các thanh sắt (ở phía sau họ). Trong các khoảng trống của cầu thang và trong thang máy, họ vứt tất cả đồ đạc, bàn tủ, tất cả những gì rơi vào tay họ, để lập hàng rào chặn những người chạy trốn (di tản) đang đuổi theo họ. Các lính thủy phải mất hàng giờ mới vượt qua được tầng gác cuối cùng. Họ thả xuống những quả lựu đạn cay làm chảy nước mắt. Có một người trong số họ ném theo quả lựu đạn tấn công. Những người Việt Nam không thể trèo lên cầu thang được. Xung quanh sứ quán có những người lính của miền Nam Việt Nam, mang súng, đi lang thang. Trên nóc sứ quán, người ta phải đặt khẩu liên thanh để canh chừng họ…
(…) Súng cối đã nổ gần sứ quán Mỹ. Lúc bình minh không có sương mù. Chuyến trực thăng cuối cùng đã đến. Cánh quạt của nó hút phải làn khói của lựu đạn cay làm cho các lính thủy ngạt hơi mở mắt không được, chập choạng trèo lên máy bay. Người lính Juan Valder đẩy những người khác lên trước. Viên đội trưởng có cảm giác là những người lính của mình ai cũng muốn lên máy bay sau chót để có thể tự hào nói: “Tôi là người cuối cùng rút khỏi Sài Gòn”.
* 7 giờ 53 phút, chiếc trực thăng cuối cùng bay lên, có những máy bay tiêm kích Cobra hộ tống. Đây là lần đầu tiên, kể từ 10 năm nay, không còn bóng một người lính Mỹ trên đất Việt Nam.
Khi đáp xuống con tàu chỉ huy Blue Ridge, Martin vội vào ngay “buồng thông tin” nơi Polgar đang nói chuyện với các nhà báo, tuyên bố ngay:
- Nếu chúng ta giữ đúng mọi lời cam kết như một quốc gia xứng đáng với tên của nó (Hoa Kỳ - Mỹ) thì tất cả mọi việc sẽ không phải diễn ra như thế này ! (còn nữa).
Giao Hưởng
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 7: Bài diễn văn cuối cùng của chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước giờ khai tử
Đăng Bởi Một Thế Giới - 19:10 29-04-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Duong_van_minh_XLRW
Ông Dương Văn Minh trong ngày 30.4.1975 tại Dinh Độc lập
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark

Hồ sơ số 9759, Phông PTTg (hiện lưu trữ tại Trung tâm LTQG II - TP. HCM) là toàn văn bài diễn văn của Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu dự định sẽ đọc trong buổi ra mắt nội các cuối cùng của chính quyền Sài Gòn vào trưa 30.4.1975…

Có thể bạn quan tâm




Nhưng trưa ấy, Quân giải phóng đã tràn vào dinh Độc Lập, nên bài diễn văn trên không bao giờ được đọc. Tuy vậy, dưới góc độ tư liệu, vẫn có thể xem đó là bài diễn văn cuối cùng của nền Cộng hòa miền Nam (Sài Gòn) trước khi bị khai tử và cần được tham khảo. Bởi, nội dung bài diễn văn cho thấy vai trò và quan điểm của giới trí thức Sài Gòn vào thời điểm lịch sử 30.4.1975:
1. Muốn tiến đến giải pháp hòa giải và hòa hợp dân tộc.
2. Khẳng định thành phần chính phủ mới (dự định ra mắt trưa 30.4.1975) gồm những vị đã từng là nạn nhân của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chưa hề tham gia hoạt động trong chính quyền đó.
Nay chúng tôi giới thiệu toàn văn bài diễn văn nói trên để bạn đọc và các nhà nghiên cứu lịch sử tham khảo:
Kính thưa Tổng thống,
Kính thưa quý liệt vị,
Nhận lãnh trách nhiệm thành lập nội các trong giai đoạn hiện tại là nhận lãnh công việc đội đá vá trời. Chúng tôi tuyệt nhiên không hề có ảo tưởng và đã nhận thức rõ các khó khăn vô cùng lớn lao đang chờ đợi. Nhưng chúng tôi không thể cam lòng từ chối trọng trách mà Tổng thống Dương Văn Minh giao phó vì quá thiết tha với hòa bình và hòa giải dân tộc. Hơn nữa, nếu có phải hy sinh, thiết nghĩ chúng tôi cũng có thể tự an ủi hy sinh đây là hy sinh cho chính nghĩa, cho hòa bình, cho nhân đạo, cho tình dân tộc, chứ không phải cho chiến tranh tang tóc, điêu tàn vô ý thức.
         Kính thưa Tổng thống,
         Kính thưa quý liệt vị,
Những vị chấp nhận tham gia vào Chính phủ do chúng tôi điều khiển đều là những nhân vật đã từng tranh đấu cho Hòa bình, đã từng nếm trải đắng cay, đau khổ, hay đã từng là nạn nhân của chính sách hiếu chiến, tham nhũng, độc tài, độc diễn, của ông Nguyễn Văn Thiệu.
Là những người trong sạch chưa hề tham gia chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, các quý vị mà chúng tôi mời tham gia Chính phủ  này, hằng thiết tha ôm ấp hoài bão làm một gạch nối để thực hiện một sự hòa giải giữa các phe lâm chiến. Như vậy, Chính phủ nay là một Chính phủ gom những phần tử hoàn toàn thuộc thành phần thứ ba, theo tinh thần Hiệp định Paris.
Thành phần thứ ba là thành phần đông đảo nhất trong cộng đồng quốc gia và vì thế cũng phức tạp nhất, bao gồm nhiều xu hướng dị biệt, đi từ Trung hữu sang tới Trung tả.
Trước tình thế vô cùng khẩn trương của đất nước, chúng tôi không có đủ thời giờ để tiếp xúc thăm dò ý kiến của tất cả các đoàn thể, lực lượng chính trị thứ ba. Do đó, chúng tôi không dám có tham vọng đại diện cho tất cả thành phần thứ ba ở trong và ngoài nước. Nhưng đây là kết quả tối đa mà chúng tôi có thể thực hiện trong một thời gian tối thiểu.
Hơn nữa, điều mà chúng tôi có thể đoan quyết cùng toàn thể đồng bào là ý chí tha thiết phục vụ đất nước trong một giai đoạn tối khẩn trương, không cho phép một ai trì hoãn hay chậm trễ. Chính thiện chí ấy đã thúc đẩy tất cả chúng tôi cùng đứng ra nhận lãnh nhiệm vụ khó khăn này, chứ không phải vì mưu đồ danh lợi.
Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã từng nhiều lần kêu gọi phía Việt Nam Cộng hòa có một Chánh phủ Hòa bình, với các nhân vật không dính líu với chế độ Nguyễn Văn Thiệu, để tái lập thương nghị. Chính phủ Hòa bình nay giờ đây đã được thành lập. Thành phần thứ ba đã đứng lên để đóng góp cho sứ mạng hòa bình, cho sự nghiệp hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Đồng bào toàn quốc đang trông chờ từng ngày, từng giờ, từng phút để máu và nước mắt dân tộc ngưng chảy vì chiến cuộc. Chúng tôi thiết nghĩ rằng những người anh em phía bên kia chắc cũng không vui sướng trước cảnh súng đao và các tang tóc điêu tàn của đồng bào ruột thịt. Chúng tôi tin tưởng rằng mọi vấn đề dù khó khăn đến đâu, cũng có thể được giải quyết trên bàn Hội nghị với tinh thần hòa giải, hòa hợp và tình huynh đệ giữa những người con cùng một mẹ Việt Nam. Tại sao chúng ta còn cần phải bắn giết lẫn nhau, gây thêm tang tóc, đau thương, cùng cực cho nhau, khi chính sách Nguyễn Văn Thiệu đã cáo chung và các người lãnh đạo chế độ này đã đưa nhau xa lìa Tổ quốc, nếu không muốn nói là chạy trốn?
Vấn đề chính còn lại là sự lựa chọn giữa chiến thắng quân sự hay chiến thắng lòng người, sự đoàn tụ trong tiếng reo mừng của Dân tộc hay sự ly tán trong lời than tiếng khóc của Quốc dân.
Trước khi chấm dứt, trong niềm tin tưởng rằng tinh thần Hòa giải Hòa hợp Dân tộc và tình nghĩa đồng bào ruột thịt sẽ thắng, chúng tôi xin vắn tắt tóm lược chương trình của chính phủ hòa bình này trong bốn điểm thiết yếu như sau :
1. Vãn hồi hòa bình bằng đường lối hòa giải hòa hợp dân tộc trên căn bản Hiệp định Paris.
2. Tôn trọng các quyền lợi tối thượng của dân tộc và các tự do căn bản của con người.
3. Kiến thiết đất nước trong Hòa giải và hòa hợp.
4. Giao hảo và hợp tác trên trường quốc tế với tất cả các quốc gia bạn, không phân biệt ý thức hệ, trên căn bản bình đẳng và tôn trọng chủ quyền quốc gia.
Sau đây là thành phần của Chính phủ hòa bình do chúng tôi điều khiển:
Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng ngoại giao: Giáo sư VŨ VĂN MẪU
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Giáo sư BÙI TƯỜNG HUÂN
Phó Thủ tướng đặc trách Xã hội và Cứu trợ: Bác sĩ HỒ VĂN MINH
Quốc vụ khanh kiêm Tổng trưởng Y tế: Bác sĩ LÊ KHẮC QUYẾN
Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa: Giáo sư PHẠM ĐÌNH ÁI
Quốc vụ khanh: Luật sư TRẦN NGỌC LIỄNG
Tổng trưởng Nội vụ: Ông HỒNG SƠN ĐÔNG
Tổng trưởng Thông tin: Dân biểu LÝ QUÝ CHUNG
Tổng trưởng Giáo dục: Giáo sư NGUYỄN VĂN TRƯỜNG
Tổng trưởng Xã hội và Cứu trợ: Bác sĩ NGUYỄN VĂN MẪN
Tổng trưởng Cựu Chiến binh: Dân biểu NGUYỄN VĂN BINH
Tổng trưởng Tài chính: Giáo sư VŨ THIỆN VINH
Tổng trưởng Kinh tế: Giáo sư NGUYỄN VŨ DIÊU
Tổng trưởng Tư pháp: Thẩm phán TRẦN THÚC LINH
Tổng trưởng Canh nông: Giáo sư CHÂU TÂM LUÂN
Tổng trưởng Lao động: Luật sư TRẦN VĂN TỐT
Tổng trưởng Giao thông, Công chánh và Bưu điện: Kỹ sư PHAN NGỌC THỂ
Bộ trưởng Ngoại giao: Tiến sĩ CAO HUY THUẦN
Bộ trưởng Nội vụ: Dân biểu ĐOÀN MAI
Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Dược sĩ TỐNG LỊCH CƯỜNG
Bộ trưởng Thông tin: Ông DƯƠNG VĂN BA
Bộ trưởng Giáo dục: Giáo sư NGUYỄN ĐỘ
Thứ trưởng Quốc phòng: Ông BÙI THẾ DUNG

Trân trọng kính chào Tổng thống và Quý liệt vị. (còn nữa)
Giao Hưởng
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 8: Tướng lĩnh Sài Gòn đòi “bắt tất cả người Mỹ làm con tin“
Đăng Bởi Một Thế Giới - 09:21 30-04-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mar-23-1964-gen-duong-van-minh-l-greeting-dr-le-khac-quyen-r_DIRN
Năm 1964, tướng Dương Văn Minh đã bắt tay bác sĩ Lê Khắc Quyến - sau này là Quốc vụ khanh kiêm Tổng trưởng Y tế trong nội các cuối cùng của VNCH do GS Vũ Văn Mẫu làm thủ tướng (cuối tháng 4.1975)
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark


Sau 30.4.1975, Giám đốc Cục tình báo CIA Mỹ William Colby viết: “Ở Hoa Kỳ, phản ứng đến một cách dần dần. Thoạt đầu, người ta bị sốc khi trông thấy những tấm ảnh chụp cảnh người Mỹ túm tụm trên nóc nhà được trực thăng đến bốc đi, nhưng…”

Có thể bạn quan tâm



[size]
Nhưng cú sốc ấy đã “được bù trừ bởi tâm trạng nhẹ nhõm của mọi người khi biết rằng cuối cùng chiến tranh đã kết thúc. Toàn bộ người Mỹ ở Sài Gòn đã được cứu thoát và người ta không có gì phải lo lắng về số phận của những con tin” (William Colby - sđdKỳ 3, tr. 18)
“Những con tin” nào ?
Câu trả lời tìm thấy trong hồi ký chính trị Việt Nam nhân chứng của trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Phó thủ tướng (trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn) kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (sau khi thủ tướng Cẩn ra đi) - ấn hành lần thứ nhất bởi NXB Xuân Thu (tháng 4.1989) tại California, Mỹ; thuật lại:
“Ngày 23.4 (1975), lúc 11 giờ, trung tướng Vĩnh Lộc, Chỉ huy trưởng Trường Cao đẳng Quốc phòng, trung tướng Nguyễn Bảo Trị, Phụ trách các trường huấn luyện quân sự, đại tá Nguyễn Huy Lợi, đại tá Vũ Quang và đại tá Trần Ngọc Huyến đến nhà tôi ở đường Alexandre de Rhodes (lúc đó tôi xử lý thường vụ chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng vì nội các Nguyễn Bá Cẩn từ chức, nay chờ nội các mới sẽ chuyển giao)” (Trần Văn Đôn, sđd tr. 462).
Tại cuộc gặp, các tướng tá nói tới việc Mỹ đang “bỏ rơi ta” để “tháo chạy” cho nhanh, nên cần phải: “Bắt tất cả những người Mỹ còn lại làm con tin !”.
Nếu ông Đôn đồng ý, 2 vị tướng và 3 vị tá kia sẽ đủ sức hợp đồng và điều động để “bắt người Mỹ làm con tin”. Nhưng ông Đôn ngăn lại, bảo: “thế nào Mỹ cũng biết và có kế hoạch để đối phó. Thủy quân lục chiến Mỹ đang chờ ở ngoài khơi (vùng biển Nam Việt Nam) sẽ đổ bộ với lực lượng hùng hậu, chừng đó sẽ đổ máu thêm nhiều người, tình thế sẽ rối rắm nguy ngập hơn (…). Bỏ rơi ta (Nam Việt Nam) là chính phủ Mỹ và quốc hội Mỹ. Bắt một số người Mỹ tại Sài Gòn làm con tin thì tội nghiệp cho họ mà chẳng ích lợi gì” (sđd, tr. 464).
Căng thẳng qua đi. “Những con tin” đã không bị bắt và tất cả người Mỹ còn lại ở Sài Gòn ra đi an toàn, trừ một hai trường hợp hiếm hoi, thiếu may mắn phải tử nạn trên đường di tản. Như chiếc trực thăng định mệnh CH-46 khi vòng lại đáp xuống tàu Hancock đã trượt đường bay rơi xuống biển, lật nhào - khiến viên phi công và phụ lái chết đuối. Người ta đưa ra nhiều con số tổng kết, ở đây chúng tôi ghi nhận số liệu của Olivier Todd (sđd Kỳ 6, tr. 272) về đợt di tản “có một không hai” của Mỹ:
Ở sân bay Tân Sơn Nhất (trước 29.4.1975): bốc đi được 5.600 người.
Ở tòa đại sứ Mỹ: đưa 2.206 người - trong đó có 1.373 công dân Mỹ ra đi.
Lực lượng không quân và hải quân Mỹ: thực hiện 689 chuyến bay, trong đó có 160 chuyến bay đêm, không kể các máy bay tiêm kích hộ tống.
Tàu Pioneer Commander: tiếp nhận 4.669 người từ cửa sông Sài Gòn chạy ra biển.
8 tàu của Mỹ: đón 29.783 người khác.
Sau ngày tổng thống Ford xét lại kế hoạch “di tản điên rồ Talon Vise” và nới rộng số lượng đón tiếp người Việt, các phương tiện tổng hợp của Mỹ bao gồm các loại máy bay, chiến hạm, đã đưa đi tất cả 130.000 người Việt Nam (so với con số giới hạn là chỉ đón 50.000 người Việt lúc đầu).
Colby viết: “Nam Việt Nam đã sụp đổ một cách hoàn toàn đến nỗi người Mỹ cảm thấy họ không thể làm bất cứ điều gì để thay đổi kết cuộc của nó. Rồi sau đó là những chăm sóc cần thiết cho 130.000 người Việt Nam chạy thoát được vào những giờ phút cuối và cho 500.000 người khác đã phải đương đầu với sóng gió biển Đông để trốn chạy trên những tàu thuyền cũ nát trong những tháng tiếp theo. Và cuối cùng là việc chuyên chở, thu xếp nơi ăn chốn ở cho họ. Tất cả những việc làm đó đã làm cho dư luận Mỹ quên đi mặc cảm tội lỗi của họ đối với Nam Việt Nam” (sđd. tr 18).
Đúc kết, đàng sau sự kiện lịch sử 30.4, Colby đọng lại một câu hỏi lớn, đề dẫn từ một vài con số không nhỏ: “Cuộc chiến tranh này đã cướp đi sinh mạng của 58.000 binh sĩ Mỹ, làm 300.000 người khác bị thương và làm Mỹ thiệt hại tới 150 tỷ đô la”.
Và: “vấn đề chủ yếu liên quan đến thất bại ở Việt Nam được nêu ra là tại sao nó lại có thể xảy ra như thế? Hạm đội hùng hậu của Hoa Kỳ gồm nào hàng không mẫu hạm, nào tuần dương hạm, ngư lôi hạm (…) có đủ hỏa lực mạnh để nghiền nát vũ khí của Bắc Việt ra thành tro bụi. Hàng mấy chục pháo đài hay B-52 của không quân chiến lược Hoa Kỳ có thể dễ dàng đến từ Guam để dội xuống đầu kẻ thù của mình hàng trăm “quả bom sắt thép”, hoặc thậm chí cả những vũ khí hạt nhân có trong tay. Quân đội Mỹ hãy còn triển khai ở nhiều nơi trên khắp thế giới để giúp đỡ các nước bạn bè hoặc ngăn cản quân thù hoạt động. Thế mà sức mạnh khổng lồ ấy đã không thể thay đổi gì được kết cục của cuộc chiến tranh ở Việt Nam - mâu thuẫn giữa tiềm lực ấy với thực tế thất bại ở Việt Nam đòi hỏi một sự giải thích…” (William Colby, sđd tr. 16-17).
         Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có cách nhìn khác với Colby. Như: PGS. TS. Hồ Sơn Đài trong lời tựa cuốn “Về đại thắng mùa xuân năm 1975 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn” (sđd Kỳ 1, tr. 7) nêu lên những con số cụ thể hơn, có “6,5 triệu lượt binh sĩ Mỹ trực tiếp tham chiến, lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược Mỹ cộng với hơn một triệu lính VNCH và quân các nước đồng minh, cùng gần 8 triệu tấn bom đạn, lôi kéo đến 39 quốc gia và vùng lãnh thổ trực tiếp hoặc gián tiếp tham chiến - qua 6 đời tổng thống Mỹ “chi gần 700 tỷ đô la, huy động 22.000 xí nghiệp với 6 triệu công nhân công nghiệp, hơn 1/3 tổng số nhà khoa học, 260 trường đại học tham gia nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh”Để rồi, từ sau 30.4.1975 “nước Mỹ chỉ thu về được một cơn địa chấn tâm lý - xã hội kéo dài nhiều thập kỷ”.
         Đến nay “hàng nghìn công trình nghiên cứu khoa học về cuộc chiến tranh Việt Nam, trong đó có cuộc tiến công và nổi dậy của nhân dân Việt Nam trong mùa xuân không thể nào quên năm 1975. Dù vậy, sự hiểu biết về cuộc chiến tranh ấy, về cuộc Tổng tấn công và nổi dậy ấy vẫn chưa thể gọi là đầy đủ, thấu đáo. Nhiều bí mật liên quan đến mưu toan, quyết sách, sự kiện, diễn biến thực tế của phía đối địch với cách mạng vẫn còn ẩn sâu đâu đó trong kho lưu trữ, trong trí nhớ của người trong cuộc. Làm lộ diện những bí mật ấy không chỉ để phục dựng đầy đủ hơn lịch sử cuộc chiến tranh đang mờ dần về quá khứ, mà còn để từ đó tìm ra những bài học lịch sử cho hôm nay - khi mà loài người vẫn đang hàng ngày đối diện với nguy cơ chiến tranh và nô dịch” (còn nữa).
[/size]
Giao Hưởng
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 9: Vui buồn qua hồi ức của thượng tướng Trần Văn Trà và Trung tướng Trần Văn Đôn
Đăng Bởi Một Thế Giới - 13:30 01-05-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Tran_van_tra-duong_van_minh2_ZUEN
Ông Trần văn Trà (trái), ông Dương Văn Minh (phải). Nguồn ảnh:ông Trần Quang Thành gửi RFA
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark


         ­ Sau lời kêu gọi buông súng đầu hàng của đại tướng Dương Văn Minh, lần lượt có đến 400.000 binh lính, cùng hơn 100.000 nhân viên công an và cộng sự viên thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia VNCH ra trình diện…

Có thể bạn quan tâm



[size]
Những con số trên do Ban tổng kết chiến tranh Thành ủy TP. HCM nêu qua cuốn Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến 1945 - 1975 (1) và thông tin thêm: trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng Sài Gòn - Gia Định đã “diệt và làm tan rã” 31.000 quân đối phương, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm “9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi khu và trụ sở, thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ Phủ tổng thống trở xuống” (sđd tr. 674)
Cũng theo tài liệu đã dẫn, tiếng súng thật sự chấm dứt cuối chiều 30.4, lúc 17 giờ, giữ được: “thành phố hơn 3 triệu dân (đầu năm 1975 - GH) vừa qua cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975) vẫn nguyên vẹn, chuyển sang trạng thái bình yên đến độ gây ngạc nhiên cho mọi người trên thế giới đang có mặt (tại Sài Gòn)”. Ai nấy đều biết “nước vẫn chảy đều trong các đường ống và dòng điện chỉ tạm ngừng trong 2 giờ (của ngày 30.4) rồi mọi nhà lại sáng. Công nhân các nhà máy vẫn sẵn sàng cho máy chạy. Chợ búa, quán xá vẫn sẵn sàng mở - đường phố vẫn đông người và xe cộ”.
Cùng ngày: “các tỉnh Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, đảo Phú Quốc được giải phóng”. Hai ngày sau (2.5), Châu Đốc là tỉnh cuối cùng đã lọt vào tay Quân giải phóng (sđd tr. 674-675).
Về giai đoạn đó, hồi ức của thượng tướng Trần Văn Trà thuật lại (trước giờ chiếm dinh Độc Lập - vào mờ sáng 30.4):
Tại Tổng hành dinh (ngoài Bắc) - tức: “từ Hà Nội, Bộ Chính trị điện chỉ thị cho mặt trận như sau: tiếp tục tiến vào Sài Gòn (…) giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của địch (…) nếu chỗ nào địch chống cự thì lập tức tiến công tiêu diệt ngay”(2).
Tại Sở chỉ huy (trong Nam): “chúng tôi chăm chú theo dõi từng giờ các mũi tiến quân của từng hướng. Trên bàn to trải bản đồ vùng Sài Gòn và xung quanh, mọi người nhìn theo vạch bút chì đỏ mà cán bộ tham mưu, từng lúc, căn cứ vào báo cáo của các cánh (tiến quân) để vẽ, đánh dấu nơi quân ta đến, mục tiêu ta đã chiếm. Bỗng một đồng chí cán bộ vừa reo mừng vừa xách máy ghi âm vào để lên bàn (phát lại) tiếng nói của Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn xin đầu hàng vô điều kiện (…) mọi người nhảy lên reo mừng. Các anh Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng đều xúc động mạnh, ôm hôn mọi người, bắt tay nhau thật chặtCó mấy phút giây trong đời ta mà được sung sướng đến nghẹn ngào, mừng vui trào nước mắt”(Trần Văn Trà, sđd tr. 395).
Ngược với niềm hân hoan tràn khắp Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, là nỗi tuyệt vọng của các tướng lãnh VNCH - khiến một số trong họ đã tự kết liễu mạng sống của mình vào thời điểm lịch sử ấy, gồm : 1Thiếu tướng Phạm Văn Phú, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 2, uống thuốc cực độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng), chết vào trưa 30.4.1975. 2Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4, tự vẫn lúc 11 giờ 30 (30.4). 3Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, điềm tĩnh từ biệt gia đình và các chiến hữu, rồi lặng lẽ quay vào phòng chỉ huy, khóa chặt cửa và rút súng tự sát lúc 20 giờ 45 (đêm 30.4). 4Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, tự sát tại tổng hành dinh ở Lai Khê (trưa 30.4). 5Chuẩn tướng Trần Văn Hai, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, tự sát tại Trung tâm Đồng Tâm (đêm 30.4).
Hàng chục sĩ quan cấp tá, cấp úy và một số hạ sĩ quan VNCH cũng đã tự sát tương tự tại nhiều đơn vị, địa phương, hoặc nhà riêng của họ trong ngày.
Một số khác bị bắt sống như: thiếu tướng Đỗ Kế Giai (Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt động quân), thiếu tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh sư đoàn 18 Bộ binh), thiếu tướng Trần Bá Di (Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Quang Trung), thiếu tướng Đoàn Văn Quảng (Tư lệnh Lực lượng đặc biệt), thiếu tướng Bùi Văn Nhu (Phó tư lệnh Bộ tư lệnh Cảnh sát quốc gia), chuẩn tướng Lê Trung Tường (Tham mưu trưởng Quân đoàn 3),chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc (Tư lệnh sư đoàn 9 Bộ binh), chuẩn tướng Trần Quang Khôi (Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ binh), chuẩn tướng Lê Văn Thân (Phó tư lệnh Biệt khu thủ đô), chuẩn tướng Hồ Trung Hậu (xuất thân binh chủng nhảy dù - Chánh thanh tra Quân đoàn 3), đại tá Nguyễn Thành Trí (Phó tư lệnh Sư đoàn Thủy quân lục chiến), đại tá Nguyễn Bá Trang (Tư lệnh Lực lượng đặc nhiệm thủy bộ 211), đại tá Nguyễn Văn Tấn(Quyền tư lệnh lực lượng Hải quân), đại tá Phạm Bá Hoa (Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận), đại tá Ngô Văn Minh (Tham mưu trưởng Biệt khu thủ đô), đại tá Nguyễn Văn May (Tư lệnh vùng 5 Duyên hải), đại tá Đàm Trung Mộc (Viện trưởng Học viện Cảnh sát quốc gia) và nhiều nữa…
Riêng các nhân vật nổi bật trên chính trường Sài Gòn di tản ra nước ngoài có trung tướng Trần Văn Đôn, Phó thủ tướng, Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Quyền Tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH (những ngày cuối tháng 4.1975) đã viết hồi ký chính trị (sđd Kỳ 8) về chuyến đi của mình như sau:
Chiều 29.4: lúc đến Tòa đại sứ Mỹ, tôi không vào được vì người quá đông nên mọi cửa ra vô đều đóng chặt, tôi phải đi vòng ngã phía đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1- HCM) cũng không vô được. Tôi trở lại Bộ Quốc phòng điện thoại cho Tòa đại sứ Mỹ, nhưng gọi rất khó khăn vì họ đã cắt nhiều đường dây, kiên nhẫn gọi một hồi liên lạc được với ông Polgar (người có trách nhiệm cao nhất của Cơ quan trung ương tình báo Mỹ CIA tại Sài Gòn). Ông dặn tôi đến nhà riêng rồi ông sẽ bốc tôi đi.
“Đến nơi tôi cũng thấy đông nghẹt người đang chờ. Cô thư ký của ông Polgar kêu chúng tôi đến khách sạn Mỹ Lee Hotel gần đài Chiến sĩ tự do. Chúng tôi tới đó thấy cửa đóng mà người chờ đợi để đi cũng quá đông nên đành trở lại nhà ông Polgar ngồi chờ.
“Đến 4g chiều, chúng tôi trở lại khách sạn Lee Hotel cũng không vô được, tôi chán nản mệt mỏi dựa cửa muốn ngủ… (sđd tr. 478).
Đang lúc nản lòng, định bỏ cuộc, bỗng cô thư ký của ông Polgar đến, nói nhỏ (với tướng Đôn): “Mình đi chỗ khác !” và “xe chúng tôi theo xe của cô ấy đến đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) gần đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) tại một cao ốc 9 tầng. Tầng dưới là Alliance Francaise của Pháp. Còn 8 tầng trên là văn phòng tình báo CIA của Mỹ. Chúng tôi lên trên sân thượng tầng 9. Tại đó đã có sẵn khoảng 60 người đang chờ trực thăng hạ xuống. Người ta chen lấn nhau để lên máy bay nên tôi đành phải đứng phía sau” chờ đợi. Chuyến trực thăng cuối cùng đáp xuống sân thượng trên lầu 9 của tòa nhà CIA đã bốc Trần Văn Đôn ra đi (sđd, tr. 479):
“7 giờ 30 tối ngày 29.4.1975, tôi giã từ Sài Gòn. Lúc đó Sài Gòn đã lên đèn, những ngọn đèn lờ mờ như chan hòa nước mắt, tôi giã từ quê hương đất nước, lúc quê hương đất nước đang chuyển mình quặn đau, cái đau đứt ruột (…) Trực thăng chở chúng tôi đáp xuống chiến hạm Hancock. Sáng hôm sau (30.4.1975), khi radio loan tin lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh, hầu hết những người trên tàu đều xúc động. Một nỗi buồn da diết đè nặng tâm hồn mọi người hiện diện. Tất cả đều im lặng. Im lặng nhìn nhau không muốn chuyện trò… đám đông người ở trên tàu đều nhòe nhoẹt nước mắt. Tàu nổ máy rồi rẽ sóng ra khơi”… (còn nữa)
[/size]
Giao Hưởng
[size]
Chú thích:
(1)   Chủ biên : Trần Hải Phụng - Lưu Phương Thanh. Biên soạnHồ Sơn Đài - Trần Phấn Chấn. Với sự tham gia của: Nguyễn Đức Y - Phạm Văn Thắng - Trần Thanh Đạt - Lữ Công Trực - Nguyễn Đức Minh - Nguyễn Tứ Phương. Chủ nhiệm công trìnhNguyễnVăn Trí. NXB TP. HCM 1994, 705 trang.
(2)   Hồi ức của thượng tướng Trần Văn Trà - 30.4.1975 - bản hùng ca thế kỷ 20 - sđd Kỳ 1, tr. 394-395)
Ảnh tư liệu Internet
Chú thích ảnh:
[/size]
Ảnh 1: Trong Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam, 1967. Từ trái qua : Bà Nguyễn Thị Định, ông Trần Văn Trà, ông Trần Độ, ông Lê Trọng Tấn

Ảnh 2: Ông Trần văn Trà (trái), ông Dương Văn Minh (phải). Nguồn ảnh:ông Trần Quang Thành gửi RFA
      
Zone
Zone Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Bài viết : 832

Danh vọng : 1544

Uy tín : 0

Kỳ 10: Lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm
Đăng Bởi Một Thế Giới - 08:04 03-05-2015
Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Chien_dich_phuoc_long1_RRWI
Chiến dịch đường 14 - Phước Long (1.1975)
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Mtg-mark

Trong các tài liệu thâu giữ từ dinh Độc Lập và Phủ Đặc ủy trung ương tình báo của chính quyền Sài Gòn có lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm viết từ mặt trận Phước Long (hồ sơ số 568 - Font ĐIICH)...

Có thể bạn quan tâm




Thư viết đúng dịp lễ Giáng sinh - gửi linh mục Cao Văn Luận:
         Phước Long ngày 25.12.1974
         Kính trình cha Chính,
Tuyệt vọng rồi cha Chính ơi ! Sáng ngày 19.12 (1974), con đã gọi điện kêu cứu cha chính là vì thấy Đức Phong, cầu 37, Bù Na, cầu 111, Bố Đức, đã mất hết, còn quanh Tỉnh một hai cây số có Việt Cộng xuất hiện (...) Chiều 19, con thúc Hội đồng Tỉnh nhóm họp và mời đại tá (tỉnh trưởng) đến để cùng xét lại tình hình. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ con đã tay đôi đấu khẩu với đại tá, con đã nói thẳng cho ông biết tình cảnh đồng bào, tinh thần của lính, sĩ quan qua những sự kiện cụ thể. (...) Bố Đức vừa là quân lỵ mới, vừa là trung tâm tỵ nạn - sau khi giải tỏa được 3 ngày, sang Chúa nhật 22 lại bị đánh và 4 giờ chiều thì bị tràn ngập, bỏ chạy tán loạn. Xứ Phước (?) sang thứ hai cũng mất luôn. Thế là Phước Long chỉ còn chút quân lỵ Phước Bình và tỉnh lỵ Phước Long mà thôi. Hiện nay Việt Cộng đặt đại liên và hỏa tiễn phòng không nhiều nơi, nhất là dọc từ Bố Đức về Phước Bình. Mỗi lần máy bay lên là nó bắn. Lúc 11 giờ một chiếc C 130 lên tiếp tế vừa décoller thì bị hỏa tiễn (bắn) cháy, lao đầu xuống tan tành.
Thấy thiết giáp T54, súng phòng không, xe molotova chạy cả đoàn, đồng bào, quân đội, và sĩ quan đều chỉ nghĩ đến chuyện một chạy hai chết ! Ông Tỉnh (tỉnh trưởng) không dám nói thật với thượng cấp nên tìm cách che giấu, không cho đồng bào đi, chúng con can thiệp cũng có cấp giấy đi máy bay nhưng dặn không cho ai (theo) lên máy bay. Đồng bào kéo nhau đến bãi đáp chờ cả tuần mà không đi được. Một số công chức, nhà giàu, họ hối lộ với phi công gunship thì thoát thân được với giá hai ba chục ngàn một người. Thế thì con nhà nghèo sao đi được.
Sau khi thấy CIA ở Biên Hòa gọi nhân viên ở Phước Long về, chúng con biết là họ được (lệnh) bỏ Phước Long và con đã xin giấy cho thầy giảng (...) chạy , nhưng chờ chực 3 ngày mà chưa đi được. Còn con chưa giải quyết được, vì giáo dân chưa đi nên cầu cứu - từ sáng Chúa nhật tất cả giáo dân Bố Đức, Phước...(?), chạy luôn về tỉnh hết.Thật là bi thảm, chết đến nơi, phen này họ cần sự hiện diện của chúng con, nên chúng con đã cam kết với đồng bào là nếu đồng bào không đi được thì chúng con sống chết như họ.
Nghe ngóng đài BBC, Manila, thì chắc chắn là Phước Long sẽ mất... Hiện nay nhìn vào tình hình Việt Cộng, nhìn vào tinh thần lính (Sài Gòn), nhìn vào sự tăng viện nhỏ giọt của quân đoàn, không ai có thể tin là Phước Long cầm cự nổi nếu bị đánh. Tất cả vợ con từ đại tá đến các ty sở đã đi từ một vài ngày đầu nổ súng. Như vậy không cho dân chạy, định giao luôn cho Cộng sản sao ! Chúng con biết lúc này chính phủ không có khả năng nuôi dân tỵ nạn nên không dám tổ chức di tản như năm 1972 (mùa hè đỏ lửa), nhưng ít nữa (hãy) cho dân chạy và họ tự kiếm chỗ ăn ở. Số lính ít ỏi quân đoàn vừa cho lên Phước Long là lính sư đoàn 5, bạc nhược và thua ở Snoul, mệt mỏi nơi chiến trường An Điền, nên chả làm được gì.
Ông Tỉnh nay đang bị dân oán, công chức, quân nhân ghét, làm sao có thể giữ nổi mảnh đất còn lại trước sức mạnh dồi dào về vũ khí lẫn tinh thần của Việt Cộng. Tuyệt vọng, con đã dọn mình chết, đã làm testament và chờ chết - chờ lọt vào tay Việt Cộng và chỉ hy vọng 1% chạy thoát và sống sót khi Việt Cộng tấn công. Đến đây chắc cha Chính biết tinh thần con bị căng thẳng đến độ nào rồi. Nhưng thưa cha Chính, đức tin đã trấn an con, nay con đã chấp nhận và sẵn sàng….
         Xin cha Chính thương.
Con (Trần Đức Sâm)
Đến nay, bức thư trên là tài liệu góp phần thông tin chính xác về mặt trận Phước Long ngày ấy và phản ánh phần nào một số nội dung chính trị xã hội liên quan.
Nhận thư ngày 27.12.1974, linh mục Cao Văn Luận đã gửi bản sao lá thư đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kèm theo mấy dòng sau (ghép chung hồ sơ số 568 - font ĐIICH: Đệ nhị Cộng hòa - Trung tâm lưu trữ quốc gia II - TP. HCM):
         Sài Gòn ngày 27.12.1974
Kính thưa Tổng thống, tôi xin phép đệ trình tổng thống bản sao bức thư của cha Trần Đức Sâm, chánh xứ tỉnh lỵ Phước Long mà tôi vừa nhận được chiều nay do thầy giảng của cha Sâm mang về, để tổng thống biết rõ hơn tình hình bi đát của Phước Long. Nếu còn có thể, xin tổng thống cho lệnh di tản dân chúng theo nguyên vọng của họ.
         Trân trọng kính chào tổng thống (ký tên) -  Cao Văn Luận.
Cao Văn Luận thụ phong linh mục khoảng 1938-1939, học Trường sinh ngữ Đông Phương Paris 1942-1945, dạy Triết tại trường Quốc Học - Huế từ 1949. Ông đứng ra vận động thành lập Viện Đại học Huế và là Viện trưởng đầu tiên của Viện Đại học Huế từ 7.1957 cho đến ngày bị chế độ Ngô Đình Diệm cách chức vì lý do đã để phong trào sinh viên Huế đấu tranh chống đàn áp Phật giáo. Sau ngày nhà Ngô sụp đổ, linh mục Cao Văn Luận tiếp tục làm Viện trưởng Đại học Huế và từ chức vào tháng 9.1964. Từ đó ông giảng dạy tại Đại học Sư phạm Sài Gòn cho tới năm 1975. Là một giáo sư tận tuỵ, người mở đầu của nền đại học khu vực miền Trung, ông được giới trí thức miền Nam quý trọng. Ông mất tại Chicago (Mỹ) năm 1986, thọ 76 tuổi. Lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm gửi ông đã được ông chuyển ngay đến Nguyễn Văn Thiệu như đã nói trên.
Nhưng Thiệu đã không đáp ứng. Và rồi, như cách diễn đạt của các đài phương Tây, toàn bộ tỉnh Phước Long đã “hoàn toàn do Cộng sản kiểm soát kể từ ngày 6.1.1975” - trở thành ngòi pháo làm bùng nổ dây chuyền các mặt trận tiếp đó, dẫn đến sự kiện 30.4 vào bốn tháng sau. Còn lúc ấy - ngay khi tiếng súng vừa dứt - Hà Nội luôn chờ đợi câu trả lời về hiệu quả của đòn “trinh sát chiến lược” giáng vào Phước Long do một điệp viên ngoại hạng từ Sài Gòn gởi ra: Phạm Xuân Ẩn… (còn nữa)
[size]
Giao Hưởng[/size]
      
      

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn

Bạn không có quyền trả lời bài viết
free counters



  • Đoàn Ngọc Khánh

    mobile phone 098 376 5575


    Đỗ Quang Thảo

    mobile phone 090 301 9666


    Nguyễn Văn Của

    mobile phone 090 372 1401


    IP address signature
    Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất