Change background image
LOVE quotion

Bắt đầu từ 4.53' thứ Hai ngày 17/10/2011


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Nguyễn Xuân Thủy đã có bài viết đăng trên tờ Jakarta Post của Indonesia ngày 27/5 để phản pháo các thông tin sai lệch mà một nhà ngoại giao Trung Quốc tại Indonesia đưa ra mới đây.

Đại sứ Việt Nam đăng đàn, phản pháo luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc 1-b0ab10
Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Nguyễn Xuân Thủy. (Ảnh: Người lao động)
Xin giới thiệu bài viết của Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy:

Trong bài viết “Những hành động nguy hiểm của Việt Nam”, ông Lưu Hồng Dương, Đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia, đã nói rằng quần đảo Hoàng Sa “là lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc”.

“Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận điều đó kể từ Thế chiến II, trong khi cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã công khai thừa nhận quần đảo này và các quần đảo khác là lãnh thổ của Trung Quốc vào ngày 14/9/1958”, ông Lưu nói.

Tôi cảm thấy cần phải đưa ra các luận điểm sau để làm rõ các thông tin xuyên tạc trên.

Trước tiên, Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Các ghi chép lịch sử chính thức đã cho thấy rõ rằng Việt Nam đã thực thi chủ quyền một cách hòa bình và liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ ít nhất thế kỷ 17, khi các vùng lãnh thổ này được xem là vô chủ.

Một ví dụ cụ thể chứng minh điều đó là các hoàng đế của Việt Nam đã có các bước đi nhằm khẳng định chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ ấy khi Vua Minh Mạng cho xây dựng một ngôi chùa vào năm 1835 và đặt một tượng đá trên quần đảo Hoàng Sa.

Trong khi đó, Trung Quốc đã không có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Nhiều bản đồ vẽ lãnh thổ Trung Quốc thời nhà Thanh mô tả đảo Hải Nam là tận cùng phía nam của Trung Quốc. Một trong số các bản đồ này gần đây đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình như một món quà trong chuyến thăm của ông Tập tới Đức hồi tháng 3 năm nay.

Khi thiết lập nền bảo hộ tại Việt Nam vào năm 1884, Pháp đã tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhân danh Việt Nam.

Ngoài ra, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được Hội nghị hòa bình San Francisco hồi tháng 8/1951 công nhận. Hội nghị đó có sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia, với mục đích giải quyết các tranh chấp lãnh thổ sau Thế chiến II.

Tại hội nghị đó, trưởng phái đoàn Việt Nam, ông Trần Văn Hữu, khi đó là Thủ tướng dưới thời Vua Bảo Đại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước phái đoàn của 50 nước khác mà không gặp phải sự phản đối nào.

Một điều rất đáng chú ý nữa là cũng tại hội nghị San Francisco, đề nghị sửa đổi đối với Hiệp ước hòa bình San Francisco về việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị 46/51 quốc gia tham dự bác bỏ.

Ngoài ra, các bên tham gia tại Hội nghị Geneva 1954 về việc phục hồi hòa bình ở Đông Dương - mà Trung Quốc cũng nằm trong số các bên tham gia - đã xác nhận sự công nhận và tôn trọng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Là một bên tham gia của hội nghị, Pháp đã tuân thủ hiệp ước San Francisco, rút các lực lượng khỏi Việt Nam vào năm 1956. Sau khi Pháp rút đi, Việt Nam Cộng hòa đã phục hồi việc quản lý đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có nhiều hành động và đưa ra vài tuyên bố để khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo này.

Không thể bác bỏ một sự thật rằng, vào năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa. Hành động xâm lược này đã vi phạm một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là cấm sử dụng vũ lực trong các mối quan hệ, vốn được ghi trong điều 2 khoảng 4 của Hiến chương Liên hợp quốc.

Do sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa hiện nay là không có giá trị, dù Trung Quốc có ở đó bao lâu và thực hiện những biện pháp gì nhằm thực thi sự quản lý.

Bản thân Trung Quốc đã ủng hộ một nguyên tắc trong một bản ghi nhớ của Bộ ngoại giao Trung Quốc vào ngày 12/5/1988, trong đó nói rằng sự xâm lược không bao giờ giúp thiết lập chủ quyền. Từ quan điểm lịch sử và pháp lý, tuyên bố chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa là không có cơ sở. Vì vậy, lập luận của ông Lưu rằng quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc cũng là luận điệu sai trái.

Thứ hai, ông Lưu cố tình trích dẫn sai công thư ngày 14/9/1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, như là một sự thừa nhận công khai chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.

Trong lá thư, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập một từ nào về các lãnh thổ của Trung Quốc, cũng như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông chỉ ủng hộ tuyên bố của Trung Quốc về vùng lãnh hải 12 hải lý. Hơn nữa, việc ông không đề cập tới các quần đảo trên là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, khi các quần đảo này đang nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa kể từ năm 1956 như đã nói ở trên.

Trung Quốc, với tư cách là một nước tham gia Công ước Geneva, chắc chắn biết rõ phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam được chia tại vĩ tuyến 17, như được ghi trong thỏa thuận Geneva năm 1954 về Việt Nam.

Hơn nữa, các tuyên bố của Bắc Kinh rằng không có tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa là hoàn toàn trái ngược với những gì các lãnh đạo Trung Quốc đã thừa nhận. Ví dụ, vào tháng 9/1975, Phó thủ tướng Trung Quốc khi đó là ông Đặng Tiểu Bình đã nói với Tổng Bí thư Lê Duẩn rằng 2 bên (Trung Quốc và Việt Nam) có các quan điểm khác nhau về Hoàng Sa và Trường Sa, và vấn đề này có thể được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán. Tuyên bố này đã được lưu giữ trong bản ghi nhớ của Bộ ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988.

Tuy nhiên, có một điều mà ông Lưu đã đúng khi nói rằng: “Chúng ta không nên nghe một mặt của câu chuyện”.

Tôi xem đó như một lời mời độc giả hãy lắng nghe tôi kể một mặt khác của câu chuyện.

      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Vừa qua, đại sứ Trung Quốc tại Úc cho đăng trên tờ The Australian bài viết liên quan đến sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, trong đó có nhiều luận điểm phiến diện, sai trái. Đại sứ Việt Nam tại Úc, ông Lương Thanh Nghị đã lập tức có bài viết "phản pháo" đăng trên tờ báo này.

Đại sứ Việt Nam đăng đàn, phản pháo luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc Ttxvn_12
Đại sứ Việt Nam tại Australia Lương Thanh Nghị
Xin giới thiệu bài viết của Đại sứ Việt Nam tại Australia Lương Thanh Nghị với tiêu đề "Luật biển và giới hạn hành xử của các nước":

"Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan khổng lồ CNOOC981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là một hành động khiêu khích và tiếp tục leo thang của Trung Quốc ở biển Đông.

Hành động này đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam ấn định bởi Công ước về Luật biển của LHQ (UNCLOS), vi phạm Tuyên bố ứng xử của các bên tại biển Đông được ký giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002, và đe dọa tự do hàng hải, hòa bình, an ninh khu vực.

Theo UNCLOS, công ước mà cả Việt Nam và Trung Quốc là thành viên, quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

Vì vậy, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong khu vực cách đường cơ sở của VN từ 120 đến150 hải lý rõ ràng đã vi phạm quyền lợi hợp pháp của Việt Nam và bất chấp luật pháp quốc tế.

Trung Quốc cho rằng khu vực hạ đặt giàn khoan nằm trong vùng tiếp giáp của quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc quản lý, chỉ cách đảo Tri Tôn 17 hải lý. Tuy nhiên, Trung Quốc cố tình lờ đi 3 thực tế quan trọng sau:

- Thứ nhất, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử đáng tin cậy và cơ sở pháp lý vững chắc về sự thụ đắc hòa bình và quản lý liên tục, có hiệu quả đối với Hoàng Sa bởi các chính quyền Việt Nam ít nhất từ thế kỷ 17.

- Thứ hai, quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực vào năm 1974. Việt Nam chưa bao giờ chấp nhận sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc và liên tục khẳng định chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa.

- Thứ ba, yêu sách về “quyền lịch sử” không phù hợp với các quy định của UNCLOS. Như giáo sư Carlyle A. Thayer (nhà nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới về biển Đông - ND) chỉ rõ, đề cập của Trung Quốc đến vùng tiếp giáp trong bối cảnh giàn khoan là không thích đáng. Vì vậy, lý lẽ bào chữa của Trung Quốc đối với vụ việc CNOOC981 là không đáng tin cậy cả trên thực tế và pháp lý.

Lấy cớ để bảo vệ giàn khoan, Bắc Kinh đã huy động hơn 120 tàu lớn, bao gồm tàu hộ vệ tên lửa, tàu săn ngầm, tàu tuần tiễu tấn công nhanh và nhiều máy bay chiến đấu đến khu vực giàn khoan. Tàu Trung Quốc đã cố tình đâm va và bắn vòi rồng công suất lớn vào các tàu dân sự Việt Nam. Cả thế giới đã kinh ngạc khi xem đoạn băng ghi hình về việc tàu Trung Quốc cố tình đâm chìm một tàu cá Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều, làm mười ngư dân Việt Nam chới với giữa biển khơi. Những hành động gây chết người như vậy là không thể chấp nhận được và vi phạm các chuẩn mực được thừa nhận rộng rãi của quan hệ quốc tế hiện đại.

Hơn nữa, Trung Quốc tùy tiện cấm tất cả các tàu khác đi vào khu vực cách giàn khoan 3 hải lý. Tàu Trung Quốc thậm chí cản trở tàu Việt Nam tại khu vực cách giàn khoan 17 hải lý. Đây là một sự vi phạm khác đối với luật pháp quốc tế vì UNCLOS chỉ cho phép khu vực an toàn không quá 500m xung quanh các cấu trúc nhân tạo được lắp đặt. Hành động như vậy đã vi phạm tự do hàng hải và đe dọa an toàn các tàu thương mại và đánh cá qua lại trên biển Đông.

Việt Nam cam kết giải quyết hòa bình tất cả các tranh chấp. Điều này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh nêu rõ nhiều lần. Không một tàu chiến nào của Việt Nam được điều đến khu vực giàn khoan. Các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam được chỉ đạo tránh các hành động nguy hiểm của phía Trung Quốc. Việt Nam đã cố gắng liên lạc trực tiếp hơn 30 lần với Trung Quốc mà chưa nhận được phản hồi phù hợp.

Vì Trung Quốc phớt lờ thiện chí của Việt Nam, Việt Nam đã phải tiến hành các biện pháp hòa bình khác như nêu vấn đề tại các diễn đàn của ASEAN và Liên Hiệp Quốc. Việt Nam sẵn sàng tất cả các biện pháp hòa bình để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình trong khi bảo đảm hòa bình và ổn định khu vực.

Đại sứ Trung Quốc tại Úc Mã Triều Húc đã đúng khi nói rằng “Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng; quan hệ song phương tốt là lợi ích chung của nhân dân hai nước”. Việt Nam luôn mong muốn hợp tác cùng Trung Quốc để giải quyết một cách hòa bình và công bằng các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Chúng tôi hoan nghênh cam kết của đại sứ Mã về “cùng nhau hợp tác”.

      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Ngày 7/7, Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan Nguyễn Tất Thành đã có bài viết “Ai là kẻ gây bất ổn tại biển Đông-Vài lời với Đại sứ Ninh Phú Khôi" đăng trên báo Matichon (Thái Lan) phản bác những luận điệu sai trái của Đại sứ Trung Quốc tại Thái Lan về vấn đề Biển Đông.

Đại sứ Việt Nam đăng đàn, phản pháo luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc Tau_tq10
Tàu Trung Quốc hung hăng tấn công tàu Việt Nam
Xin giới thiệu bài viết của Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan Nguyễn Tất Thành với tiêu đề “Ai là kẻ gây bất ổn tại biển Đông? - Vài lời với Đại sứ Ninh Phú Khôi:

"Đại sứ Trung Quốc tại Thái Lan Ninh Phú Khôi ngày 23/6/2014 đã viết bài trên báo Matichon trình bày quan điểm của ông về vấn đề biển Nam Trung Hoa - vùng biển Việt Nam gọi là Biển Đông. Để rộng đường dư luận, tôi cũng xin bổ sung thêm một số thông tin để bạn đọc của bản báo có được sự đánh giá đầy đủ hơn về “ai là kẻ gây bất ổn tại biển Đông”.

Trước tiên, tôi thấy rằng thông tin mà Đại sứ Ninh nêu trong bài để cho rằng Việt Nam “quấy rối” hoạt động của Trung Quốc thực chất là chép lại từ tài liệu ngày 08/6/2014 công bố trên trang mạng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng cả tài liệu này cũng như trong các cuộc họp báo khác nhau, đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra được bằng chứng thuyết phục và khách quan để chứng minh luận điểm của mình. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các bạn đọc Thái chắc không khó kiểm chứng được từ các nguồn thông tin công khai và khách quan để thấy được đúng sai trong các thông tin mà Đại sứ Ninh đã nêu.

Thực tế là hoạt động trái phép của giàn khoan Trung Quốc cũng như hành động hung hăng, vô nhân đạo của các tàu hộ tống giàn khoan của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam đã được thông tin đầy đủ bởi nhiều cơ quan truyền thông cả trong và ngoài khu vực, của các nước phát triển và đang phát triển. Các phóng viên nước ngoài, các nhà bình luận quốc tế hay các học giả và chính giới đều có chung nhận định rằng chính hành động đơn phương, khiêu khích không phù hợp với luật pháp quốc tế, trái với Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) của Trung Quốc là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình hình căng thẳng hiện nay.

Thứ hai, tôi không thể đồng ý với quan điểm của Đại sứ Ninh cho rằng chính phủ Trung Quốc đã thực hiện chủ quyền liên tục, hợp pháp và ổn định đối với quần đảo này từ giữa và cuối thế kỷ thứ 10 vì điều này mâu thuẫn với lịch sử và nhầm lẫn về pháp lý. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam là quốc gia đầu tiên đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền một cách liên tục và hòa bình đối với quần đảo Hoàng Sa, chí ít là kể từ thế kỷ 17, khi mà vùng lãnh thổ này còn vô chủ. Các chúa Nguyễn của Việt Nam đã thành lập những đội dân binh, gọi là đội Hoàng Sa, để cai quản và khai thác quần đảo Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa này có nhiệm vụ hàng năm tới quần đảo Hoàng Sa để khai thác sản vật, đo đạc, trồng cây, dựng bia, xây dựng chùa chiền, cứu hộ tàu thuyền… Tất cả những hoạt động này đều được ghi lại trong các tài liệu chính thức.

Tôi nói rằng có sự mâu thuẫn với lịch sử trong phát biểu của Đại sứ Ninh vì theo như tôi biết năm 1898, trước việc chủ tàu Bellona và Himeji Maru đòi nhà đương cục Trung Quốc bồi thường cho việc ngư dân Trung Quốc cướp tài sản hai chiếc tàu này khi chúng bị đắm tại Hoàng Sa, Phó vương Quảng Đông đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là vùng đất vô chủ, không thuộc về Trung Quốc, không có liên quan gì về mặt hành chính đối với bất cứ quận nào của Hải Nam và không cơ quan nào có trách nhiệm kiểm soát khu vực này. Điều này thực ra cũng dễ hiểu thôi vì trong một thời gian dài của lịch sử, các triều đình nhà Minh và nhà Thanh đã áp dụng chính sách “Hải cấm” thể hiện một sự lo ngại đối với những mối hiểm họa từ biển hơn là một tư duy mong muốn vượt ra khỏi lãnh thổ lục địa để làm chủ biển.

Chính vì tư duy của người Trung Quốc đối với biển và về quần đảo Hoàng Sa như vậy, nhà bản đồ học hàng đầu người Pháp là Jean-Baptiste Bourguignon d'Anville đã thể hiện lãnh thổ Trung Quốc thời Càn Long (1736 - 1795) chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam (không bao gồm các đảo ở biển Đông như quần đảo Hoàng Sa) trong tấm bản đồ xuất bản tại Đức thế kỷ 18. Tấm bản đồ này đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 3 vừa qua khi ông Tập Cận Bình tới thăm Đức.

Trong khi đó, chính tài liệu của Trung Quốc, như Hải ngoại Kỷ sự (Haiwai jishi) năm 1696 hay Hải Lục (Hailu) năm 1820 và tài liệu quốc tế như Journal of the Asiatic Society of Bengal (1837) và Journal of the Geographical Society of London (1849) đã công nhận và thể hiện quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ của Việt Nam.

Về mặt pháp lý, tôi chỉ nói ngắn gọn là không có bất cứ tài liệu quốc tế chính thức liên quan nào ghi rằng Trung Quốc giành lại Hoàng Sa từ Nhật Bản năm 1946 như Đại sứ Ninh đã viết. Trái lại, tại Hội nghị San Francisco năm 1951, đề xuất yêu cầu Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa đã bị bác bỏ với 46 phiếu chống trong tổng số 51 nước tham dự. Cũng tại Hội nghị này, Trưởng đoàn Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa mà không gặp phải bất kỳ phản đối nào. Tiếp đó, Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương khẳng định các bên tham gia tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, có nghĩa là bao gồm quần đảo Hoàng Sa đang do các lực lượng của Pháp và Việt Nam Cộng hòa quản lý.

Chính vì chủ quyền đối với Hoàng Sa thuộc về Việt Nam và Trung Quốc với tư cách là quốc gia tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 biết rất rõ về điều này, hành động mà Đại sứ Ninh gọi là “đánh đuổi” quân đội miền Nam Việt Nam tại Hoàng Sa thực chất là hành động xâm lược bằng vũ lực và đã bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng như Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam lên án mạnh mẽ. Một hành động như vậy không thể là cơ sở để Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền như Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nêu và đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng ngày.

Thứ ba, Đại sứ Ninh nói rằng hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 lần này là sự tiếp nối của tiến trình thăm dò trong suốt 10 năm qua, hoàn toàn trong phạm vi chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc và Việt Nam không có quyền phát biểu, không có quyền can thiệp hoặc ngăn cản. Nhưng phải nói rằng, hoạt động trái phép, như thăm dò, khảo sát, của Trung Quốc tại vùng biển của Việt Nam ở biển Đông trong 10 năm qua luôn gặp phải sự phản đối của Việt Nam dưới nhiều hình thức và ở các cấp khác nhau. Thậm chí, trước thái độ thiếu thiện chí của Trung Quốc và việc xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi chính đáng của Việt Nam tại biển Đông, ngày 05/8/2010, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải công khai lên tiếng phản đối. Việc Việt Nam kiên quyết phản đối hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 lần này là để bảo vệ khu vườn cùng các cây cối tại đó của mình đang bị một người hàng xóm vô cớ đòi sở hữu.

Thực vậy, khu vực Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam từ 60 - 80 hải lý. Việc làm của Trung Quốc, bất chấp sự phản đối của Việt Nam, đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được quy định theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Đại sứ Ninh nói rằng khu vực giàn khoan Hải Dương-981 là thuộc vùng biển của “Tây Sa” (Hoàng Sa của Việt Nam) do cách đường cơ sở của quần đảo này 17 hải lý trong khi cách đường cơ sở Việt Nam từ 120-140 hải lý. Việc Trung Quốc vẽ đường cơ sở quanh quần đảo “Tây Sa” là vô giá trị, không phù hợp với các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Điều tôi muốn nói thêm ở đây là chính Trung Quốc đã “không giữ lời” khi muốn xóa bỏ lời nói của lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tháng 9/1975 rằng Việt Nam và Trung Quốc sẽ đàm phán giải quyết vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa như được ghi nhận trong Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Để hỗ trợ cho hoạt động trái phép của giàn khoan Hải Dương-981, Trung Quốc huy động một lực lượng hùng hậu tàu bè và máy bay các loại, có lúc lên tới gần 140 chiếc, trong đó có cả những tàu quân sự hiện đại, trang bị vũ khí đầy đủ để cản phá hoạt động của các tàu dân sự của Cảnh sát Biển và Kiểm ngư Việt Nam đang thực thi pháp luật trên vùng biển của Việt Nam. Các tàu Trung Quốc đã đâm va, phun vòi rồng vào các tàu của Việt Nam trong phạm vi bán kính cách giàn khoan trên 10 hải lý, gây thương tích cho hàng chục cán bộ kiểm ngư và ngư dân, gây hư hại nhiều tàu thực thi pháp luật của Việt Nam. Vô nhân đạo hơn cả là việc tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam đang đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các tàu của Trung Quốc ngăn cản hoạt động tàu Việt Nam cứu trợ đối với 10 thuyền viên của tàu bị chìm.

Các hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, trái với tinh thần và lời văn của DOC cũng như các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước. Hành động của Trung Quốc đã không còn là một vấn đề song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc mà đã và đang đe dọa an ninh, an toàn, tự do hàng hải và gây bất ổn trong khu vực. Chính vì vậy, không chỉ Việt Nam phản đối mà nhiều nước trên thế giới đã bày tỏ quan ngại và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động khiêu khích của mình.

Cuối cùng, trong bài viết của mình, Đại sứ Ninh nói rằng “Trung Quốc là một nước lớn có trách nhiệm, chúng tôi “không gây chuyện” và không muốn thấy khu vực xung quanh chúng tôi xảy ra những rắc rối”. Nhưng tôi thấy thực sự lo ngại là các hành động của Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương-981mà tôi vừa thông tin cho bạn đọc của bản báo đã thể hiện khoảng cách rất lớn giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc. Dù vậy, tôi hoan nghênh tuyên bố của Đại sứ Ninh rằng “Nếu bất cứ việc gì có thể làm dịu tình hình, chúng tôi đều sẽ quyết tâm tiến hành thúc đẩy”.

Tôi nghĩ rằng điều thiết thực nhất hiện nay là Trung Quốc ngay lập tức rút giàn khoan Hải Dương-981 cùng các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam và cùng Việt Nam giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan. Về điểm cuối cùng này, cá nhân tôi thấy rằng Đại sứ Ninh và tôi nên tận dụng những hiểu biết của mình về tranh chấp hiện nay xung quanh hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 ở Biển Đông để đưa ra những đề xuất phù hợp với cơ quan chức năng trong nước, kể cả việc kiến nghị chính phủ hai nước trình bày những bằng chứng lịch sử và lập luận pháp lý của hai bên trước một cơ quan tài phán quốc tế để phân xử chứ không chỉ dừng ở việc trình bày quan điểm trên phương tiện thông tin đại chúng.

Việc Trung Quốc đồng ý sử dụng biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp này và quan trọng hơn đó là tuân thủ phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế chính là điều thiết thực để giúp các nước nhỏ như Việt Nam và Thái Lan có lòng tin rằng Trung Quốc thực sự thực hiện “trách nhiệm” của “một nước lớn”.

      
Cựu học viên
Cựu học viên Xuất sắc

Cấp bậc: Xuất sắc

Giới tính : Nam

Bài viết : 1328

Danh vọng : 2216

Uy tín : 54

Ngày 28/6/2014, Đại sứ Trung Quốc tại Liên minh châu Âu Dương Yến Di đã có bài viết trên tờ New Europe về vụ “giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981)” với những lập luận sai sự thật. Ngày 17/7, cũng trên tờ New Europe, Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ, kiêm nhiệm Đại công quốc Luxembourg và Ủy ban châu Âu Phạm Sanh Châu đã có bài viết: "Hãy trả lại bình yên cho Biển Đông" phản bác lại những lập luận cố tình làm sai sự thật của Đại sứ Trung Quốc Dương Yến Di.

Đại sứ Việt Nam đăng đàn, phản pháo luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc Dai_su10
Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ, kiêm nhiệm Đại công quốc Luxembourg và Ủy ban châu Âu Phạm Sanh Châu
Xin giới thiệu bài viết của Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ, kiêm nhiệm Đại công quốc Luxembourg và Ủy ban châu Âu Phạm Sanh Châu với tiêu đề "Hãy trả lại bình yên cho Biển Đông":

Ngày 28/6/2014, người đồng nghiệp của tôi, Đại sứ Trung Quốc tại Liên minh châu Âu Dương Yến Di đã có bài viết trên tờ New Europe về vụ “giàn khoan” ở biển Đông và về luật pháp quốc tế liên quan để giải quyết tranh chấp.

Tôi tán thành cách tiếp cận dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế của Đại sứ Dương, tuy nhiên cá nhân tôi muốn đưa ra một vài phản biện đối với những lập luận chưa chính xác của Đại sứ Dương, và giải thích tại sao những lập luận này không thể đứng vững khi xem xét kỹ lưỡng dưới góc độ của luật pháp quốc tế.

Đại sứ Dương đã cố biện hộ cho hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc bằng hai luận điểm: Trung Quốc có “chủ quyền không thể chối cãi” đối với quần đảo “Tây Sa” và “vùng nước không có tranh chấp của quần đảo Tây Sa.”

Với tất cả sự tôn trọng, tôi xin khẳng định cả hai lập luận trên của Đại sứ Dương đều sai sự thật.

Thứ nhất, theo quy định của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, việc các cá nhân khai phá một vùng lãnh thổ là chưa đủ để hình thành quyền sở hữu của một quốc gia đối với lãnh thổ đó.

Ngay cả việc phát hiện lãnh thổ trên danh nghĩa quốc gia cũng chỉ tạo ra “danh nghĩa chủ quyền ban đầu” (inchoate title), muốn thiết lập chủ quyền với vùng lãnh thổ này, chính quốc gia đó cần có những hành động chiếm hữu, quản lý liên tục và hiệu quả.

Cái gọi là quần đảo Tây Sa thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (tiếng Anh là Paracels) đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm, nỗ lực xác lập và thực thi chủ quyền ít nhất là từ thế kỷ 17. Điều này được ghi rõ trong các tài liệu lịch sử chính thức của Việt Nam và của các quốc gia khác.

Đại sứ Dương có thể tham khảo bộ sưu tập bản đồ trong cuốn Bản đồ Thế giới (World Atlases) của nhà địa lý nổi tiếng người Bỉ Philippe Vandermaelen, trong đó ấn bản năm 1827 đã thể hiện rất rõ Hoàng Sa thuộc đế chế An Nam (Việt Nam) trong phần bản đồ về Nam Kỳ (Cochinchine).

Trái lại, phía Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng nào chứng minh việc Trung Quốc xác lập và thực thi chủ quyền đối với quần đảo này trong suốt chiều dài lịch sử.

Không có sách lịch sử hay bản đồ chính thức nào của Trung Quốc ghi nhận Hoàng Sa và cả Trường Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc cho đến tận giữa thế kỷ XX.

Trong tất cả các tài liệu và bản đồ chính thức của Trung Quốc, điểm cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt quá đảo Hải Nam. Điều này cũng đã được ghi nhận trong ấn bản World Atlases của Philippe Vandermaelen nói trên.

Chính lịch sử và văn hóa Trung Quốc đã chứng minh nước này chưa từng có ý định chiếm hữu lãnh thổ trên biển.

Trong hàng ngàn năm lịch sử, đối với người Trung Quốc, biển luôn gắn liền với cướp biển và sự bất ổn. Vì thế, rất nhiều triều đại Trung Quốc, đến tận đời nhà Minh và nhà Thanh, vẫn tiếp tục thi hành chính sách cấm các hoạt động trên biển, được biết đến với tên gọi Chính sách Hải Cấm (Haijin).

Chính sách này cấm tàu bè ra biển, buộc người phải di chuyển vào trong lục địa 30-40 dặm, người nào dám cả gan vươn ra biển sẽ bị quy vào tội mưu phản chống lại triều đình và sẽ bị xử tử.

Với thực tế đó, Trung Quốc khó có thể khẳng định rằng Hoàng Sa là một phần thiết yếu của lãnh thổ nước này trong hơn 1000 năm qua, bởi theo luật quốc tế, để có thể thiết lập danh nghĩa chủ quyền, các quốc gia cần phải tiến hành hoạt động thực thi chủ quyền một cách “liên tục và hiệu quả” đối với vùng lãnh thổ đó.

Bài viết của Đại sứ Dương có đề cập rằng trước năm 1974, Việt Nam chưa bao giờ chất vấn về “chủ quyền của Trung Quốc” đối với Hoàng Sa, và các tuyên bố chính thức của Việt Nam đều công nhận Hoàng Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Điều này là hoàn toàn vô căn cứ và là sự cố tình hiểu sai lịch sử.

Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, Trưởng đoàn Việt Nam, Thủ tướng quốc gia Việt Nam Cộng hòa lúc đó Trần Văn Hữu đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.

Trong khi đó, đề xuất của Liên Xô đề nghị công nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với hai quần đảo này đã bị 46 trên 51 nước tham gia hội nghị bác bỏ.

Ba năm sau đó, Hiệp định Geneva 1954 về Đông Dương được ký kết đã ghi nhận toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa, giao cho Việt Nam Cộng hòa quản lý.

Điều này được duy trì cho tới khi đất nước Việt Nam thống nhất vào năm 1975. Là một nước tích cực tham gia đóng góp vào nội dung của Hiệp định, Trung Quốc ắt hẳn nắm rõ điều này. Vậy Trung Quốc sử dụng bằng chứng nào để tuyên bố rằng Việt Nam Cộng hòa đã công nhận Trường Sa và Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc trước năm 1974?

Sự thực là Trung Quốc đã hai lần sử dụng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hòa vào các năm 1956 và 1974, giết hại nhiều người Việt Nam trong trận chiến năm 1974.

Việc sử dụng vũ lực để thôn tính lãnh thổ đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế được thiết lập kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Hành động bất hợp pháp này không thể mang đến cho Trung Quốc chủ quyền thực sự đối với quần đảo Hoàng Sa.

Chính Trung Quốc đã xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bằng việc đưa ra yêu sách chủ quyền bất hợp pháp đối với Hoàng Sa và chiếm đóng quần đảo này bằng vũ lực.

Thứ hai, giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc được triển khai tại vị trí chỉ cách bờ biển Việt Nam 130-150 hải lý, nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).

Là một quốc gia thành viên của UNCLOS 1982, Trung Quốc có nghĩa vụ xác định vùng biển của mình phù hợp với các điều khoản của Công ước, đồng thời tôn trọng quyền tương tự của các quốc gia ven biển khác.

Cho dù Trung Quốc xác định vùng biển của mình tính từ đường bờ biển của đảo Hải Nam hay của bất kỳ thực thể nào của Hoàng Sa đi chăng nữa (chưa bàn tới việc Trung Quốc chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa) thì vùng nước nơi giàn khoan được hạ đặt cũng không thể coi là “vùng nước không có tranh chấp” của Trung Quốc.

Thứ ba, Đại sứ Dương đã sai khi cáo buộc Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế và gây tổn hại đến an toàn, tự do hàng hải trong khu vực Trung Quốc hạ đặt giàn khoan.

Chính Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan thăm dò dầu khí và triển khai lực lượng bảo vệ giàn khoan gồm cả tàu quân sự như tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh, tàu săn ngầm, tàu đổ bộ và nhiều máy bay chiến đấu. Hành động này đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía Việt Nam cũng như sự quan ngại từ các nước trên thế giới.

Các đoạn video công khai cho thấy các tàu cỡ lớn của Trung Quốc đã cố ý đâm va, phun vòi rồng vào các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều lần.

Đặc biệt, ngày 26/5/2014, tàu Trung Quốc đã chủ động bám đuổi, đâm va cho đến khi lật úp tàu cá ĐNa-90152-TS của Việt Nam đang hoạt động bình thường trong vùng biển của Việt Nam, thậm chí các lực lượng Trung Quốc còn có hành động ngăn cản các tàu của Việt Nam tham gia cứu hộ, cứu nạn 10 ngư dân của tàu cá ĐNa-90152-TS.

Thực tế này hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của Đại sứ Dương rằng Trung Quốc không ức hiếp các nước nhỏ, đồng thời cũng đã chứng minh rõ ràng rằng Trung Quốc mới chính là nước gây hấn, xâm hại an toàn, tự do hàng hải, vi phạm UNCLOS 1982 và Công ước về phòng chống đâm va trên biển năm 1972 (COLREGs).

Hành vi cố tình phá hủy các thiết bị định vị và liên lạc trên tàu cá Việt Nam, gây thương tích cho các kiểm ngư viên Việt Nam đã cấu thành hành vi tội ác có thể bị xử lý theo Công ước 1988 về trấn áp các hành vi bất hợp pháp xâm phạm an toàn hành trình hàng hải.

Việc Trung Quốc buộc tội ngược rằng Việt Nam đã đâm các tàu Trung Quốc tổng cộng 1.547 lần không hề được chứng minh bằng bất cứ bằng chứng thuyết phục nào.

Đại sứ Dương nói rằng Việt Nam đã không có phản hồi đối với hơn 30 cuộc trao đổi giữa hai nước.

Nhưng tuyên bố này đã che giấu một thực tế quan trọng. Đó là trong các cuộc trao đổi này, vấn đề duy nhất không được phản hồi chính là yêu cầu của Việt Nam buộc Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam với mục đích tạo ra môi trường thuận lợi để hai nước trao đổi giải quyết vấn đề.

Chính thái độ trong trao đổi và những hành động thực địa trên biển của Trung Quốc đã không giúp hạ nhiệt căng thẳng và cho thấy rõ ràng Trung Quốc thiếu thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.

Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Ngài Arif Havas Oegrosenno, Đại sứ Indonesia tại Bỉ, Luxembourg và EU, kiêm Chủ tịch cuộc họp lần thứ 20 giữa các quốc gia thành viên UNCLOS 1982, trong bài bình luận gần đây đăng trên RSIS đã chỉ ra rằng Trung Quốc với tư cách là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nên có trách nhiệm đạo lý, chính trị và pháp lý để duy trì hòa bình và ổn định thế giới.

Tôi cũng hết sức hoan nghênh tuyên bố của Đại sứ Dương rằng Trung Quốc sẽ tuân thủ nguyên tắc tìm kiếm các biện pháp hòa bình đối với mọi tranh chấp thông qua tham vấn, đàm phán với các bên trên cơ sở bình đẳng, và rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục nỗ lực “hạ nhiệt căng thẳng với Việt Nam” đồng thời “củng cố quan hệ song phương.”

Đây là hy vọng về thiện chí và trách nhiệm của Trung Quốc đối với hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng như trên thế giới.

Để chứng minh cho thế giới thấy Trung Quốc có thiện chí muốn “trả lại bình yên” ở Biển Đông và để minh chứng cho việc làm của Trung Quốc luôn đi đôi với lời nói, Trung Quốc cần chấm dứt ngay các hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước láng giềng, triệt để tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982.

Trung Quốc cần không bao giờ tái diễn việc hạ đặt giàn khoan và đưa lực lượng hộ tống vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

      
      

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn

Bạn không có quyền trả lời bài viết
free counters



  • Đoàn Ngọc Khánh

    mobile phone 098 376 5575


    Đỗ Quang Thảo

    mobile phone 090 301 9666


    Nguyễn Văn Của

    mobile phone 090 372 1401


    IP address signature
    Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất