|
Với âm mưu chiếm trọn Biển Đông, mục đích biến không thành có, lâu nay Trung Quốc đã "vừa ăn cướp, vừa la làng”, dùng vũ lực xâm lược biển Việt Nam, chiếm Hoàng Sa, một phần Trường Sa của Việt Nam. Hiện họ đang tiếp tục tiến lên một nấc thang mới, trong đó có việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam, dùng tàu, máy bay tấn công tàu chấp pháp của Việt Nam...
Từ chuyện biến không... thành có
Trong lịch sử, người ta thừa nhận Trung Quốc không phải là nước yếu kém về kinh tế, nhất là về hàng hải. Vào triều Minh, Trung Quốc từng là trung tâm kinh tế của thế giới. Con đường tơ lụa nổi tiếng được hình thành, phát triển từ trên đất liền và cả trên biển. Lực lượng quân sự thời nhà Minh, nhất là lực lượng hải quân cũng khá lớn mạnh. Nhà hàng hải Trịnh Hòa từng thống lĩnh đội tàu hùng hậu với hơn 260 con tàu, với khoảng 27.000 người, tiến hành 7 cuộc hành trình ra biển phía Tây, từng đi xa qua Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, bờ Đông Châu Phi…
Tuy nhiên, có một thực tế, những chuyến đi trên biển của hàng hải Trung Quốc chủ yếu với mục đích tìm hiểu, buôn bán, không vì mục đích xâm chiếm. Sau chuyến đi xa thứ 7, năm 1433, Trịnh Hòa chết. Trước sự lục đục, mâu thuẫn giữa các quan lại triều đình, vua Minh đã xuống chiếu ra lệnh: "Cấm mọi tàu thuyền lớn đến các phiên quốc biển phía tây”. Những con tàu của triều Minh dần mục nát. Bộ binh triều Minh cũng đã đốt trụi hết các xưởng đóng tàu cùng các bản vẽ, thiết kế. Sự nghiệp hàng hải của Trung Quốc đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Điều ấy đã chứng minh vì sao một Trung Quốc nước lớn lại không tiếp tục vươn ra biển, khi các quốc gia phương Tây sau đó thả sức tung hoành. Điều đó cũng chứng minh tấm bản đồ Trung Quốc do nhà bản đồ học người Pháp là Jean Baptiste Bourguignon d’Anville vẽ, cho đến thời Càn Long (1736-1795) các đảo Hải Nam, Đài Loan còn không có trong lãnh thổ Trung Hoa. Trong khi thực tế, cũng thời điểm ấy, cùng với việc vươn khơi, các triều đại phong kiến của Việt Nam đã sử dụng, khai thác các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trường Sa, Hoàng Sa hiển nhiên đã là đất đai lãnh thổ, máu thịt của Tổ quốc Việt Nam. Như Tập bản đồ Châu Á xuất bản năm 1827, nhà địa lý học Philippe Vandemaelen (1795-1869), người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ, đã thể hiện rõ quần đảo Hoàng Sa một cách rõ ràng, chi tiết, thuộc về đế chế An Nam (Việt Nam).
Cho đến đầu thế kỷ XX, những nhà cải cách, lãnh đạo Trung Quốc từ chỗ chấn hưng đất nước Trung Quốc, học phương Tây, muốn khỏa lấp cái mà phương Tây chỉ trích: "Trung Quốc quay lưng với biển”, mục tiêu phát triển, kinh tế, xây dựng một Trung Hoa lãnh đạo thế giới, đã không ngừng tiến hành những âm mưu, hành động bá quyền trên biển. Và rồi họ đã tập trung xây dựng lực lượng quân sự biển, vẽ ra những cái gọi là đường lưỡi bò, quần đảo Tây Sa, Nam Sa; vừa ăn cướp, vừa la làng, chà đạp luật pháp quốc tế, dùng vũ lực tiến hành những cuộc xâm lược trên biển. Mục tiêu trước mắt là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng biển của Việt Nam. Những cuộc xâm lược đã liên tục diễn ra, chưa có điểm dừng.
Những cuộc xâm lược bằng vũ lực
Cuộc xâm lược biển đảo Việt Nam đầu tiên của Trung Quốc có thể được tính vào năm 1946. Khi ấy, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời (năm 1945), đang bận rộn đối phó với thù trong, giặc ngoài. Ngày 26-10-1946, một hạm đội của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm chở đại diện một số cơ quan và 59 binh sĩ đã xuất phát từ cảng Ngô Tùng tiến về biển Việt Nam. Ngày 29-11-1946, hai chiến hạm cùng binh lính đã đổ bộ chiếm đóng đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; hai chiến hạm chiếm đóng đảo Ba Bình của quần đảo Trường Sa. Mặc cho Pháp khi ấy còn đang quản lý, kiểm soát tại hai quần đảo này phản đối, Trung Hoa Dân Quốc vẫn không chịu rút lui. Tháng 10-1949, nước CHND Trung Hoa thành lập, tháng 4-1950, quân của Tưởng Giới Thạch mới rút khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, trả đảo cho sự quản lý của Pháp và quân đội Quốc gia Việt Nam lúc đó.
Cuộc xâm lược biển đảo Việt Nam lần hai được tính vào năm 1956. Năm 1954, Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ, phải ký Hiệp định Geneve và buộc phải rút khỏi Việt Nam. Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Hoàng Sa, Trường Sa thuộc sự cai quản của chính quyền miền Nam Việt Nam vừa thành lập. Lợi dụng lúc tranh tối, tranh sáng này, Trung Quốc lại đã âm thầm đem quân chiếm giữ ngay một số đảo ở Hoàng Sa. Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình ở Trường Sa. Năm 1956, khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức đến tiếp quản các đảo nói trên từ Pháp thì mọi sự đã rồi.
Cuộc xâm lược lần thứ ba có thể tính vào năm 1959, khi Trung Quốc đã giả danh đưa lực lượng 5 thuyền đánh cá với 82 ngư dân trang bị vũ khí đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa, thuộc phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, cuộc xâm lược thất bại khi quân đội VNCH thể hiện sức mạnh, bắt giữ, áp giải những kẻ xâm phạm lãnh thổ Việt Nam đưa về tạm giam tại Đà Nẵng, sau đó mới trao trả cho Trung Quốc.
Cuộc xâm lược lần thứ tư của Trung Quốc có thể coi là quy mô và dùng vũ lực mạnh xảy ra vào tháng 1-1974, khi Việt Nam đang tập trung công cuộc thống nhất đất nước, chính quyền VNCH đang lúc suy thoái. Ngày 15-1-1974, Trung Quốc cho quân đánh chiếm các đảo ở Hoàng Sa. Cuộc chiến đấu tay đôi ác liệt thực sự đã diễn ra trong ngày 19-1-1974. Phía Việt Nam Cộng hòa bị bắn chìm 01 hộ tống hạm, bị bắn hỏng 01 khu trục hạm, 01 tuần dương hạm bị thương; 74 sĩ quan, chiến sĩ đã ngã xuống …. Và rồi, mặc dù Trung Quốc đã bị bắn chìm 02 hộ tống hạm, 02 lôi trục hạm; 01 đô đốc, 06 đại tá và hàng chục sĩ quan cấp tá, cấp úy khác bị tử trận, nhưng bằng số quân áp đảo, Trung Quốc đã hoàn toàn chiếm được quần đảo Hoàng Sa.
Suốt trong nhiều năm sau đó, mặc cho Việt Nam lên tiếng đấu tranh phản đối trên mọi phương diện, Trung Quốc vẫn làm ngơ. Năm 1988, Trung Quốc lại tiếp tục bất ngờ cuộc xâm lược lần thứ năm trên biển. Ngày 14-3-1988, họ đã bất ngờ dùng biên đội tàu chiến đấu 6 chiếc trang bị tên lửa, pháo cỡ 100mm tấn công bắn chìm 3 tàu vận tải của Việt Nam đang làm nhiệm vụ. Các chiến sĩ hải quân Việt Nam đã chống trả quyết liệt. Phía ta có 3 tàu hải quân đã bị chìm, 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam đã anh dũng hy sinh. Cho đến ngày 6-4-1988, Trung Quốc đã chiếm được đảo Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Su Bi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Những năm qua, Trung Quốc cũng đã liên tục tiến hành những cuộc đụng độ, xâm phạm chủ quyền, bắt bớ ngư dân Việt Nam. Và rồi vào những ngày tháng 5-2014 này, với việc đem giàn khoan Hải Dương-981 cùng hàng trăm tàu hải giám, tàu chiến, máy bay tiến sâu vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, tấn công tàu chấp pháp Việt Nam, Trung Quốc đã thực sự tiếp tục tiến hành cuộc xâm lược biển Việt Nam lần thứ sáu. Cuộc đụng độ đã thực sự diễn ra. Đã có nhiều tàu Việt Nam bị hư hại, nhiều chiến sĩ Việt Nam bị thương trong khi làm nhiệm vụ.
Bao giờ Trung Quốc thôi dã tâm xâm lược?
Có một thực tế, trước kia các nước phương Tây như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nhật ... bằng con đường hàng hải, đã chiếm lĩnh nhiều vùng thuộc địa. Trên đất liền, nhiều cuộc chiến tranh của các đế quốc cũng đã thôn tính nhiều đất đai, thuộc địa. Thực tế từ chiến tranh Nha phiến 1840, đến khi thành lập nước CHND Trung Hoa (1949), Trung Quốc cũng đã phải hứng chịu hàng trăm cuộc ngoại xâm, phải ký đến 745 điều ước. Ở trên biển, dù trước đó, với mọi quốc gia, việc phân định dù bằng chiều dài phát đại bác, hay tuyên bố hải lý, rồi cũng đều phải tuân thủ theo quy định chung của thế giới: Công ước quốc tế Luật Biển năm 1982.
Vậy nhưng chỉ với hơn nửa thế kỷ qua, dù đã hơn 6 lần xâm lược biển đảo Việt Nam, Trung Quốc chắc chắn vẫn chưa thôi ý đồ xâm lược. Điều đặc biệt, Trung Quốc đã củng cố, xây dựng hiện đại những khu vực, vùng đất chiếm được. Ngày 21-6-2012, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ra quyết định thành lập cái gọi là TP Tam Sa (trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam). Trung Quốc đã xây các công trình hiện đại, các căn cứ quân sự, dân sự, du lịch trên quần đảo Hoàng Sa. Ngay tại những đảo chiếm được trên quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng xây dựng căn cứ quân sự hiện đại... Từ chỗ còn chớp thời cơ, đánh úp, Trung Quốc đã ngang nhiên công khai xâm lược, coi thường luật pháp, dư luận quốc tế. Trung Quốc tiếp tục đầu tư xây dựng lực lượng quân sự trên biển. Nếu những năm trước đây hải quân Trung Quốc chưa mạnh thì năm 2006, họ đã xây dựng một lực lượng quân sự mạnh, riêng trên biển với hàng ngàn máy bay, hơn 1.500 tàu chiến, 77 tàu ngầm, 26 tàu khu trục; mấy trăm các tàu tên lửa, đổ bộ, phóng lôi.v.v… Cho đến nay lực lượng nói trên đã tăng hơn nhiều.
Tính từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã hơn nửa thế kỷ đấu tranh với việc xâm lược trên biển của Trung Quốc, hàng trăm người Việt Nam đã ngã xuống. Cho đến nay, những vùng đảo, vùng biển Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm vẫn chưa thu hồi được. Trung Quốc như con hổ tham lam vẫn tiếp tục lấn sâu, đòi nuốt từng miếng đất, vùng biển Việt Nam. Sau cuộc xâm lược lần thứ sáu này, rồi sẽ còn những cuộc xâm lăng nữa...
Người Trung Quốc và các học giả trên thế giới nói rằng Trung Quốc đang trỗi dậy. Thực tế họ đang từng bước thực hiện âm mưu nuốt trọn Biển Đông, vươn ra Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và xa nữa. Trung Quốc đã đi ngược lại những gì ông cha họ đã làm. Trung Quốc đã coi thường, bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp Công ước Luật Biển 1982, do chính họ tham gia, ký kết. Trung Quốc đi ngược lại những gì như chính họ đã khẳng định: "Trung Quốc phản đối chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền với mọi hình thức, vĩnh viễn không tranh bá, vĩnh viễn không bành trướng” (Báo cáo tại Đại hội Đảng lần thứ 17 của ĐSQ Trung Quốc). Hành động của họ đang đi ngược lại xu thế của thời đại, và chắc chắn sẽ phải gánh những hậu quả từ sự sai lầm.