|
Nhiều thập kỷ sau, một nhà văn đã tìm thấy “bà cố vấn” đang sống ẩn dật tại Paris. Một tác phẩm mới đã được ra mắt nhằm dựng lại những ngày cuối cùng của người đàn bà quyền lực một thời của Sài Gòn.
Sài Gòn năm 1963
Cả thành phố chìm trong làn sóng bạo lực. Trên các tuyến phố, nhiều nhà sư tự thiêu để phản đối chính sách chống đạo Phật của chính quyền Diệm-Nhu. Những âm mưu nổi dậy lan tràn khắp nơi trong hàng ngũ quân đội. Trong những nhà tù đông nghẹt, sinh viên và tù nhân chính trị bị đưa vào trừng trị trong các xà lim chuồng cọp. Trong Dinh Độc lập không xa nơi đó, chính quyền gia đình trị Diệm - Nhu đang đau đầu chuẩn bị cho việc ban hành luật quân sự và bịa đặt ra các báo cáo về thành tích trong phong trào chống Cộng.
Nhưng những người Mỹ ủng hộ chính quyền Nam Việt Nam yếu ớt ngày càng bất mãn với Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như những kẻ họ hàng bợ đỡ và muốn đa số họ “biến cho khuất mắt”: Từ ngài tổng thống thiếu kinh nghiệm nhưng ngoan cố, cho đến người em trai tàn nhẫn, và đặc biệt là người em dâu ông Diệm - người phụ nữ mà Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã sử dụng biệt danh “hổ cái đáng nguyền rủa” để mô tả sự hãnh tiến, đầy toan tính của “Đệ nhất phu nhân” chính quyền Sài Gòn nổi danh với cái tên “Bà Nhu”.
“Ngây thơ như rắn hổ mang”
Vào thời kỳ đỉnh cao quyền lực, với vẻ đẹp chết người và những tham vọng không thèm che giấu, bà Nhu là nguồn gốc của hàng loạt câu chuyện thêu dệt và cũng tạo nên sự căm ghét của cả người dân địa phương và người phương Tây. Các tạp chí danh tiếng Time và Life đưa “bà cố vấn” lên các trang bìa và gọi bà là “sự quyến rũ xảo quyệt”. Tờ The New York Times khi đó mệnh danh bà là “người phụ nữ quyền lực nhất” Châu Á. Bà Nhu được mô tả “tự mãn và kiêu ngạo”, “một nhân vật của Ian Fleming (tiểu thuyết gia, “cha đẻ” của điệp viên 007-PV) ngoài đời thực”, người “ngây thơ như rắn hổ mang”, hay một “Nữ thần chiến tranh” phương Đông.
Đệ nhất phu nhân Mỹ Jackie Kennedy thậm chí cho rằng bà ta có “sự kỳ quái của quyền lực” và phóng viên của Hãng thông tấn Mỹ AP tại Sài Gòn, Malcolm Browne, biết bà Nhu là “kẻ thù nguy hiểm nhất mà một người đàn ông có thể gặp phải”. Xu hướng thời trang của bà Nhu với những chiếc áo dài bó sát và móng tay sơn màu đỏ tươi càng khiến hình ảnh của bà gần hơn với một “mệnh phụ đỏm dáng”. Tên của bà Nhu thậm chí còn được sử dụng như tiếng lóng để mô tả người phụ nữ đáng sợ: Jackie Kennedy sử dụng nó để chỉ những phụ nữ mà bà không ưa, trong lúc những người ghét Yoko Ono - vợ của ca sĩ John Lennon trong ban nhạc Beatles - gọi bà ta là “Bà Nhu của Lennon”.
Song đáng tiếc, con đường quyền lực và danh vọng của bà Nhu lại sớm tàn. Vào mùa thu năm 1963, vụ đảo chính do Mỹ hậu thuẫn đã hạ bệ và sát hại luôn cả người anh chồng và người chồng quyền lực của bà Nhu, buộc người đàn bà một thời quyền lực phải rời bỏ cố quốc sống ẩn dật cách quê hương nửa vòng trái đất. Sau một vài nỗ lực tuyệt vọng để giành lại chút hư danh qua đề nghị bán bản quyền hồi ký cho các nhà làm phim Hollywood, bà Nhu hầu như biến mất hoàn toàn khỏi thế giới, cho đến khi một học giả có tên Monique Demery tìm thấy dấu vết của bà vào giữa năm 2000 và đề nghị bà kể lại câu chuyện về một thời hoàng kim trong chế độ Sài Gòn. Tuy nhiên, trò chơi “mèo vờn chợt” đã bộc lộ rõ trong cuốn sách mới xuất bản của Demery “Đi tìm Quý bà Tuổi Rồng: Bí ẩn về Bà Nhu của Việt Nam”.
Mọi lời kể từ bà Nhu đều đáng ngờ
Cuốn sách được viết rất hấp dẫn, dù thi thoảng có vài hạt sạn, về người đàn bà vẫn còn đang chìm đắm trong hư ảo của quá khứ vinh quang, với trí óc đã nửa phần ngây dở sau nhiều năm ẩn dật xa lánh xã hội, người đã phải trải qua hoàn cảnh nghèo túng đầy ngạo mạn, giữa sự thâm hiểm và đáng thương, và cả mánh khóe quỷ quyệt, mà thông thường là tổng hòa của toàn bộ những khía cạnh này.
Demery đã dệt nên truyền thuyết về công cuộc tìm kiếm Bà Nhu cùng lúc tái hiện lại tiểu sử cuộc đời của đệ nhất phu nhân Sài Gòn trong lịch sử hiện đại đầy hỗn loạn ở Việt Nam và Đông Dương khi đó. Được sinh ra sau khi Diệm đã bị lật đổ một thập kỷ, Demery chưa từng có cơ hội được chứng kiến về thời đại cầm quyền của gia đình họ Ngô như nó đã diễn ra.
Thay vào đó, bà đã dựa vào những ghi chép đương thời của các nhà báo Mỹ, các tư liệu nhân chứng, các ghi chép của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), các thư từ và đoạn ghi hội thoại của tổng thống, cả tấm bằng cử nhân của bà về nghiên cứu Châu Á và hai chuyến nghiên cứu thực địa ở Việt Nam, các cuộc đàm thoại với bà Nhu, và cuối cùng, những hồi ức bị cắt xén của “bà cố vấn” và một nhật ký bí ẩn. Vấn đề là, bất cứ điều gì được kể lại từ miệng hay trí óc của bà Nhu, kể cả những cuộc trả lời phỏng vấn trực tiếp của bà với báo chí Sài Gòn khi đó, đều đáng phải đặt trong sự nghi vấn bởi thiên hướng thích phóng đại, tô vẽ sự việc và cả những mánh khóe lừa gạt khéo léo của “bà cố vấn”.
Người mẹ tham vọng
Kể cả những giai thoại đầu đời của bà Nhu dường như cũng bị bao phủ bởi một lớp sương mù đẫm chất thần thoại. Khi bà Nhu được sinh ra, vào năm 1924, một thầy bói tại Hà Nội đã tiên đoán rằng “ngôi sao chiếu mạng của cô bé không thể sáng hơn!” và nói với người mẹ, một công nương hoàng gia, rằng số phận của cô con gái nhỏ “vượt qua mọi sự tưởng tượng”. Lời tiên đoán này đã khiến cha mẹ của bà, khi đó được đặt tên là Lệ Xuân, đặt nhiều kỳ vọng vào cô con gái giữa và dành nhiều ưu ái cho cô hơn người chị gái và người em trai. Lệ Xuân lớn lên luôn là trung tâm của sự chú ý và được hậu thuẫn mạnh mẽ, những người chị em cùng cha mẹ luôn khích bác rằng cô là người trái tính trái nết, khiến Lệ Xuân cảm thấy mình là “chủ đề của các nguồn cơn hay cuộc chiến trong gia đình”.
Tuy nhiên, khó có thể mô tả thời thơ ấu của Lệ Xuân là khốn khổ, ít nhất không phải về bình diện vật chất. Cha của Lệ Xuân, một luật sư trong chính quyền thuộc địa và có họ hàng xa với hoàng đế, lại ngưỡng mộ tất cả những gì có xuất xứ phương Tây. Ông cho các con học trường Pháp, nói tiếng Pháp ở nhà và tham gia vào các cuộc tiếp tân ở thuộc địa. Gia đình Lệ Xuân khi đó thuê hàng chục người hầu để nấu nướng, dọn dẹp và lái xe chở họ đi vòng quanh thành phố trên chiếc Mercedes bóng loáng.
Mẹ của bà Nhu có thể ghen ghét, hoặc thậm chí là khinh miệt cô con gái thứ hai, nhưng cả hai lại có rất nhiều điểm tương đồng. Bà Chương nổi tiếng vì sắc đẹp - người Pháp mô tả bà là “Hòn ngọc Châu Á” - vì sự lịch lãm và quý phái toát ra từ các trang phục đắt tiền. Bà cấm tất cả những người khách đến nhà được mặc màu vàng, màu của hoàng gia. Bà Chương cũng thể hiện dự cảm chính trị sắc bén. Các buổi tiếp tân thứ ba hàng tuần tại tư dinh bà Chương ở Hà Nội trở nên nổi tiếng với sự góp mặt của những vị chức sắc “tai to, mặt lớn” của cả giới chức Pháp và Việt.
Vào năm 1939, khi chế độ Vichy cho phép Nhật Bản được vào Đông Dương, gia đình bà Chương bắt đầu tạo dựng mối quan hệ với các nhà ngoại giao từ Tokyo. Sắc đẹp của bà Chương trở thành vũ khí lợi hại, mà theo cảnh sát mật của Pháp, bà ta đã “nổi tiếng trên toàn Đông Dương” vì “những tham vọng bền bỉ cũng như sẵn sàng lên giường với bất cứ người nào có ảnh hưởng từ bất cứ nơi nào và với mọi quốc tịch”, kể cả những đối tác mới từ Nhật. Nhờ vũ khí lợi hại là bà vợ, ông Chương đã nhận được một công việc hời trong chính phủ bù nhìn của Nhật. Cảnh sát Pháp còn nhận định “với sắc đẹp và mưu lược, bà Chương chính là người “đứng mũi chịu sào” trong gia đình. Bà ta điều khiển chồng”.