TTO - Là một trong những chiến sỹ đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, tên của ông Tô Văn Cắm được ghi trang trọng trong danh sách 34 chiến sỹ đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (VNTTGPQ). Tuổi càng cao, sức càng cạn, nhưng trí tuệ ông thì vẫn còn minh mẫn và giọng nói vang vang hào sảng...Hai vợ chồng ông Tô Văn Cắm Kỷ yếu về Đội VNTTGPQ do Viện Lịch sử Quân sự thực hiện, ghi: “Tô Văn Cắm, bí danh Tô Tiến Lực, Tô Đình Lực. Dân tộc: Tày. Năm sinh: 1922. Quê quán: bản Um, Tam Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng. Trú quán: thị trấn Đạ Tẻh, Lâm Đồng”.
Nội dung cuốn kỷ yếu đã dành ba trang để nói về Tô Văn Cắm cùng với tiểu sử của 33 đồng chí của ông. Đến thị trấn Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng quê hương mới của gia đình ông, hỏi tên Tô Văn Cắm thì già trẻ ai ai cũng biết. Ông ôm vai và siết tay tôi thật chặt. Giọng nói của lão ông tuổi 86 cất lên sang sảng:
- Cảm ơn cháu đã về thăm tôi! - Vừa với tay rót nước, ông vừa cười khà khà - Nhớ, nhớ lắm, không hề quên cái gì đâu. Đó là những ngày ý nghĩa nhất trong cuộc đời tôi.
Dòng ký ức tràn đầy cảm xúc của người cựu binh già quay trở về với những tháng ngày oai hùng trên chiến địa năm xưa, với khu rừng Trần Hưng Đạo ghi dấu ấn chói ngời trong trang sử đấu tranh vệ quốc…
Có một ngày không bao giờ quênSau hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941), phong trào Việt Minh ở Cao Bằng phát triển rộng khắp, đặc biệt, ba châu Hà An, Hà Quảng và Nguyên Bình đã trở thành “châu Việt Minh hoàn toàn”, Hội thanh niên cứu quốc đã phát triển đến các thôn, bản.
Ngày ấy, bản Um của ông Tô Văn Cắm có khoảng bảy mươi nóc nhà, số đông là người Tày và một ít đồng bào người Dao, trồng lúa nước, nuôi lợn gà. Ông cũng như bao thiếu niên nghèo khác trong bản, ngày đi chăn trâu, làm ruộng, tối cắp ghế đến nhà ông thầy dạy chữ Hán trong bản học lỏm vài ba chữ. Ông kể: "bữa được bữa mất nhưng cũng theo học chữ Nho được ba bốn năm cơ đấy, bây giờ thì quên hết rồi”.
Năm 1941, sau khi Bác Hồ về Pắc Bó, Việt Minh ra đời. Năm đó, Tô Văn Cắm 19 tuổi, hăng hái tham gia Hội thanh niên Cứu quốc, đi tuyên truyền, vận động mọi người cùng vào các Hội để góp sức đánh đổ đế quốc, phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng chính bản thân mình.
- Thưa ông, ai là người đã giác ngộ và hướng dẫn ông đi làm cách mạng? - Tôi hỏi.
- Đó là anh Nông Văn Lạc - ông trả lời ngay. Chúng tôi đã biết về tên tuổi của người cựu đảng viên, chiến sỹ kiên trung này. Trong kỷ yếu của Viện Lịch sử Quân sự ghi: “Nông Văn Lạc - người được coi là cánh tay phải của đồng chí Văn (đại tướng Võ Nguyên Giáp) trong việc tổ chức, thành lập Đội VNTTGPQ. Nhà của đồng chí Lạc chính là nơi địch chiếm dụng để làm đồn Phai Khắt”.
Ông Cắm nói tiếp:
- Anh Lạc nói với tôi rằng: “Giặc Pháp áp bức, bóc lột khiến dân mình khổ lắm rồi. Bây giờ ở đây có Đảng, có Hội cứu quốc, mình tham gia thôi, tham gia thì phải xin thề”. Sau khi nghe anh Lạc nói, tôi cũng bảo: “Tôi cũng khổ lắm rồi, chúng nó bắt dân mình nộp đủ thứ sưu cao, thuế nặng, mà nếu không đóng thuế thì phải đi phu, đi lính cho chúng”. Thế là tôi đã quyết định xin gia nhập vào Hội cứu quốc…
Mùa Xuân năm 1942, Tô Văn Cắm cùng với một hội viên khác là Thanh Vy đã tìm đến một số gia đình ở Thượng Ân tuyên truyền bà con tham gia Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc và ông đã vận động được mười người vào hội. Trong khi đang chuẩn bị đi dự lớp huấn luyện cán bộ thì quân địch bất ngờ xộc về quê ông khủng bố trắng.
Tháng 2 năm 1944, Tô Văn Cắm cùng với một số cán bộ địa phương theo học lớp quân chính (khóa 3) do đồng chí Lê Thiết Hùng phụ trách, mở tại rừng Lũng Chí thuộc xã Tam Lọng. Khi khóa học này kết thúc cũng là lúc làn sóng khủng bố trắng của quân địch dâng cao. Hàng trăm thanh niên ưu tú của Cao Bằng phải lánh vào rừng, tổ chức các đội vũ trang thoát ly chống khủng bố.
Riêng bản Um, quê của Tô Tiến Lực (lúc này ông Cắm đã được đặt bí danh) có tới ba người nằm trong số này là ông cùng Tô Đình Túy và Nguyễn Văn Trần. Trong những năm từ 1941 đến 1944, chàng thanh niên lỳ lợm và có chút ngang ngạnh này không được đi đây, đi đó như một số cán bộ Việt Minh khác mà ở lại lăn lộn với phong trào địa phương. Chính vì vậy mà khi Đội VNTTGPQ ra đời ở khu rừng Trần Hưng Đạo, Tô Tiến Lực là đại diện cho Đội vũ trang xã được cử đi tham gia…
- Tại sao ông lại được chọn vào Đội VNTTGPQ?
- Anh Lạc và anh Văn nhận xét tôi đã từng tham gia chống khủng bố, chống càn, có đủ gan dạ, dũng cảm, có lòng căm thù giặc sâu sắc, nên không thể phản động được. Thế là tôi được chọn để kết nạp vào Đội. - Ông trả lời.
Nói đến đây, ông hồi tưởng lại những kỷ niệm không thể phai mờ về vị Đại tướng Tổng tư lệnh. Năm 1942, anh Văn về vùng xã Tam Kim hoạt động. Ông không thể nào quên lần đầu tiên được gặp đại tướng. Đó là một buổi chiều, Nông Văn Lạc đã dẫn ông đến gặp anh Văn ở một lán trại bí mật trong khu rừng vắng dưới chân dãy núi Slam Cao.
Đại tướng căn dặn ông: “Các em và bà con đừng sợ giặc Pháp, có chúng tôi ở đây, cứ yên tâm và sẵn sàng chiến đấu. Có thời cơ rồi, quân dân mình cùng vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. Rồi đồng bào mình sẽ được sống yên ổn, ấm no…”.
Sau lần ấy, Tô Tiến Lực đã nhiều lần được gặp anh Văn. Ông nói về vị đại tướng với tất cả tấm lòng yêu mến và kính phục: “Anh Văn là người rất dễ gần và rất tình cảm cháu ạ!” Ông kể cho tôi nghe về những đêm được ngủ trong rừng chung lán với đại tướng, ông đã được anh Văn kể về chặng đường hoạt động của mình và nói chuyện rất nhiều về cách mạng, về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, về con đường mà nhân dân Việt Nam đã chọn.
Ông nói, có nhiều đêm ngủ say quá ông gác chân cả lên đầu, lên cổ đại tướng, lần nào bị mất giấc ngủ giữa chừng anh Văn cũng chỉ cười và nói “Ôi, Tiến Lực nằm ngủ thế này à”. Kể đến đây, ông Cắm lại cất lên một tràng cười hết sức sảng khoái. Trong khoảng thời gian ba năm được hoạt động, gần gũi anh Văn, biết bao kỷ niệm sâu sắc giữa vị tướng tổng chỉ huy và người chiến sỹ.
Lúc tham gia Hội cứu quốc, mặc dù chưa được trải qua một trường lớp quân sự bài bản nào và cũng chưa từng trải qua trận đánh nào, nhưng bù lại, Tô Văn Cắm là người thông thạo địa hình, am hiểu địch tình lại có nhiều kinh nghiệm vận động quần chúng. Thời điểm này, ở Tam Lọng, Kim Mã đã thành lập được ba đội vũ trang lấy tên là Đức Chính, Thế Dục và Phan Thanh.
Ngoài hoạt động chống khủng bố, ông đã cùng với Nông Văn Quang, Nông Văn Lạc, Đặng Tuần Quý, Nông Văn Xương và các đội viên vũ trang khác tích cực vận động bà con dân bản đóng góp sức người, sức của cho thành công của buổi lễ ra mắt Đội VNTTGPQ cũng như hai trận đánh đầu tiên của quân đội ta là Phai Khắt, Nà Ngần. Sau khi cùng toàn thể Đội VNTTGPQ đánh đồn Đồng Mu trở về, Tô Tiến Lực hoạt động vũ trang tuyên truyền ở vùng cao hai huyện Nguyên Bình và Ngân Sơn.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, tiếng súng kháng chiến chống thực dân Pháp vang lên ở Nam Bộ. Phong trào “Nam tiến” phát triển mạnh khắp các địa phương ở Bắc bộ và Trung bộ. Theo tiếng gọi “sơn hà nguy biến”, nhiều đoàn quân “Nam tiến” đã hăm hở lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Cả ba anh em Tô Tiến Lực đã có mặt trong đoàn quân oai hùng đó.
Vào đến chiến trường Rạch Giá một thời gian ngắn, đến giữa năm 1946, trong một trận chiến đấu ác liệt, ông đã bị thương nặng phải rời đơn vị và trở về Bắc, sau đó được giải ngũ về lại quê nhà. Thế nhưng, cuộc đời làm lính chiến của ông chưa chấm dứt tại đây. Sau sự kiện quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn vào ngày 10 tháng 7 năm 1947, Tô Tiến Lực lại hăng hái xung phong tái ngũ.
Trong chiến dịch Biên Giới (Thu Đông năm 1950), trên cương vị trung đội trưởng phòng không, ông tham gia trận đánh đồn Đông Khê lần thứ hai. Trong trận này, ông lại bị thương nặng thêm một lần nữa, và chính vết thương này đã buộc ông phải chia tay thực sự với đời binh nghiệp khi tuổi đời hãy còn rất trẻ.
Người con trai của bản Um đã trở về với quê nhà Tam Kim, với khu rừng Trần Hưng Đạo, nơi ông gắn bó, yêu thương và ghi dấu biết bao kỷ niệm trên chặng đường hoạt động cách mạng của mình. Mãi tới năm 1992, đã ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng Tô Tiến Lực - Tô Văn Cắm vẫn quyết định bứt ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đói nghèo, cùng vợ con tìm đường vào xây dựng kinh tế mới, quê hương mới trên cao nguyên Lâm Đồng…
Cuộc hội ngộ sau nửa thế kỷ- Thưa ông, từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ đến nay, ông có được lần nào gặp lại Đại tướng Võ Nguyên Gíap không ạ? - Tôi hỏi ông. Đôi mắt người lính già ánh lên niềm xúc động.
Ông kể lại, ông đã may mắn được tái ngộ với vị đại tướng kính yêu vào tháng 7 năm 2000. Dịp ấy, đại tướng đi thăm các cơ quan quân sự phía Nam và dừng chân ở Bộ Tư lệnh Quân khu 7. Tại đây, khi được biết Tô Tiến Lực đang sinh sống cùng với vợ con ở tỉnh Lâm Đồng, đại tướng mong được gặp.
Thế là hai vòng tay ôm chặt trong cuộc hội ngộ sau hơn nửa thế kỷ của vị tổng chỉ huy lẫy lừng đã gần bước vào tuổi cửu tuần và người lính trẻ năm xưa nay cũng sắp qua tuổi “xưa nay hiếm” đã làm rơi nước mắt biết bao người chứng kiến.
“Sau giây phút vui mừng gặp lại không nói nên lời, đại tướng hỏi tôi bằng tiếng Tày “Sau khi rời quân ngũ, Tiến Lực làm gì? Cuộc sống hiện nay ra sao?” Tôi đã không thể kìm được dòng nước mắt, bởi 56 năm mới gặp lại mà anh Văn vẫn nhớ bí danh của tôi và vẫn nói tiếng dân tộc với tôi như ngày còn ngủ chung trong lán nứa giữa rừng Slam Cao.
Tôi kể với anh Văn là từ khi giải ngũ đã về làm nông dân bình thường, vì nhà nghèo nên con cái không được học hành đến nơi đến chốn, tuy nhiên, vẫn chăm chỉ làm ăn và là những công dân tốt, không làm gì ảnh hưởng đến truyền thống cách mạng của gia đình và quê hương. Đại tướng căn dặn: Làm gì cũng cao quý, miễn là phải chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước.
Làm nông cũng phải cần có kiến thức, phải áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để cho thu nhập cao. Đại tướng cũng nói với tôi rằng: “Cao Bằng là cái nôi của cách mạng, ở đó đã nuôi dưỡng những chiến sỹ VNTTGPQ, đã ra quân đầu tiên và đánh thắng giặc Pháp. Vì vậy, dù ở đâu, làm gì, Tiến Lực cũng phải giữ vững truyền thống gia đình, quê hương, phát huy phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ”. Tôi đã hứa với anh Văn những điều anh căn dặn…
Những ngày xế bóng của cuộc đời, người lính già Tô Văn Cắm sống trong thanh thản. Những tháng ngày hoạt động, chinh chiến đã lùi về ký ức, những dòng ký ức của người chiến binh thuộc thế hệ đầu tiên trong thời đại Hồ Chí Minh đã hòa trong dòng chảy lịch sử cách mạng của dân tộc và nhân dân.
Giờ đây, trên quê mới Lâm Đồng, ông ngập tràn hạnh phúc giữa vườn cây, ao cá, giữa con cháu quây quần. Ông nói rằng, cuộc đời như dòng chảy, thấm thoắt vậy mà đã gần hai phần ba thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày cùng những đồng đội má lún phún lông tơ trang nghiêm tuyên thệ dưới bóng cây cổ thụ giữa rừng Trần Hưng Đạo.
Trong ba mươi tư chiến sỹ năm xưa, có người trọn đời theo đường binh nghiệp và trở thành những vị tướng lẫy lừng, có người về với nương rẫy ruộng vườn. Giờ đây người còn sống, người đã thành thiên cổ nhưng ký ức về một thời hào hùng và oanh liệt in dấu chói ngời trên trang sử nước nhà chẳng thể nào phai nhòa trong tâm trí những người lính già như ông.
Nghe giọng nói, tiếng cười hào sảng cùng những sắc thái cảm xúc trên gương mặt ông, tôi chợt nhớ một câu thơ của vua Trần Nhân Tông sau ngày bình Nguyên lần thứ ba đại thắng: “
Người lính già đầu bạc - Kể mãi chuyện Nguyên Phong”. Vâng, chuyện ngày xưa, chuyện một thời vệ quốc dù đã mãi mãi lùi về ký ức nhưng dòng chảy lịch sử đậm chất tráng ca đó thì không thể phai mờ…
UÔNG THÁI BIỂU