Change background image
LOVE quotion

Bắt đầu từ 4.53' thứ Hai ngày 17/10/2011


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Chút trải lòng khi đọc Nhật ký Vũ Xuân

Đọc những dòng lưu bút của liệt sỹ Vũ Xuân trên chặng đường hành quân, tôi như được sống lại những thời khắc oanh liệt và cực kỳ gian khổ ấy...

Những dòng lưu bút của liệt sỹ Vũ Xuân 04-chu10
Theo Nhật ký của liệt sỹ Vũ Xuân, cuộc Nam tiến lần thứ ba của anh được chuẩn bị vào cuối năm 1970, trùng với thời gian những người lính chúng tôi, thuộc Tiểu đoàn 596, Tỉnh đội Ninh Bình, kết thúc 8 tháng huấn luyện để lên đường ra tiền tuyến. Đúng 12 giờ trưa ngày 20.12.1970, đơn vị chúng tôi lên tàu. Tôi không bao giờ quên được khoảnh khắc ấy. Như nhiều chiến sỹ khác, lúc bước chân lên tàu và khi tàu chuyển bánh, tôi đều cố vươn cổ nhìn xuống đường xem có gặp được khuôn mặt thân quen nào không...

Ghi chép của anh Vũ Xuân ngày 10.1.1971: “Nhớ về đất Thái”, “người ta” dặn tôi như thế. Nhớ những gì? Nhớ để làm gì? Trong tương lai hậu phương sẽ đón ta, sẽ “ưu đãi” ta sau những ngày gian khổ vất vả từ chiến trường trở về thế nào đây?... Những dòng tiếp theo diễn tả những bức xúc có lẽ đã dồn nén từ lâu, nó cần được lên tiếng, cần được khẳng định. Song, sóng gió của lòng anh đã dừng lại bằng những lời bộc trực chân thành: “Anh đã yêu em suốt những năm tháng của tuổi ấu thơ và trưởng thành.

Mặc dù cuốn Nhật ký Vũ Xuân được anh Vũ Thành, em trai liệt sỹ Vũ Xuân tặng gia đình tôi từ lâu nhưng tình cờ mãi đến cuối tháng 12 vừa qua tôi mới đọc và bị cuốn hút ngay vào cuốn sách. Cũng trong thời gian đó, tôi tình cờ được theo dõi vài tập trong bộ phim Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân của Đài Phát thanh và Truyền hình Thái Nguyên. Tôi thực sự nghiêng mình trước tình đồng chí, đồng đội và những nghĩa cử cao đẹp của Đại tá Đỗ Hà Thái, người đã lưu giữ suốt hơn 30 năm qua và giúp đỡ tích cực cho việc xuất bản cuốn nhật ký, cũng như đưa hài cốt liệt sỹ Vũ Xuân về an táng tại nghĩa trang quê hương anh.

Tuổi thơ của em trọn vẹn trong anh, ngắm hình em, sống lại tuổi thơ ấm êm, anh thấy hạnh phúc dạt dào, nguồn hạnh phúc ấy tiếp thêm sinh lực cho anh đã, đang và sẽ vượt qua những trở lực của đường đời”…

Cũng trong những ngày ấy, lòng tôi từng nổi sóng. Có điều cơn cớ để những con sóng của lòng tôi trỗi dậy không giống của anh, bởi tôi trẻ hơn anh và tình cảm của tôi với người con gái nơi quê nhà cũng trẻ con hơn mối tình của anh nhiều lắm. Tôi không có người con gái nào thân thiết từ tuổi thơ, thân đến mức khi trưởng thành rồi có thể là bạn thân, thành người yêu ấy, dù hoàn cảnh gia đình, môi trường sinh ra và lớn lên của tôi cũng có nhiều nét tương tự với anh. Mãi đến hôm vào viện cắt amidan trước khi nhập ngũ, tôi mới thấy xuất hiện một cô gái lặng lẽ ngồi chứng kiến cảnh các bác sỹ, y tá căng miệng tôi để cố cắt đi cái cục thịt trong cổ họng, mà theo họ nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng chiến đấu của chúng tôi (?!). Cô ấy lại còn giúp mẹ tôi vừa thay những chiếc khăn đẫm máu vừa thao thao kể cho tôi nghe bao nhiêu chuyện về ngôi trường của chúng tôi, về lớp của cô ấy (cô học sau tôi hai lớp), về điều mà cô ấy nói là cô và các bạn rất tự hào khi biết tôi là học sinh lớp 10 duy nhất của Trường cấp III A Kim Sơn vừa đi thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc lại tình nguyện tòng quân dịp này. Chính cô là người đầu tiên ghi những dòng lưu niệm thiết tha tình bạn, tình hậu phương với người ra tiền tuyến vào cuốn sổ mà tôi đã lưu giữ, đã ghi nhật ký vào đó trên chặng đường hành quân từ Bắc, qua Lào cho đến khi chuẩn bị rẽ sang Kon Tum. Cuốn sổ đó tôi đã trao gửi về gia đình, nhưng tiếc rằng tôi không được cầm lại cuốn sổ đó, vì đã thất lạc...

Tôi chẳng nhớ mình đã nhắc đến người con gái nói trên được bao nhiêu lần, còn anh thì tôi đếm được 46 trang anh có nhắc đến người phụ nữ của mình, trong đó có 2 bức thư anh viết nhưng không gửi, khá dài. Những dòng anh viết về chị sao mà nhiều cung bậc, nhiều luyến láy. Anh trích thư của chị cũng nhiều, có đoạn trích tới ba lần. Hờn giận đấy, rồi dạt dào yêu thương…

Khác với anh, tôi chỉ có một kỷ vật của tình yêu là tấm hình cỡ 3x4, được cô gái trao tặng nhân lần tôi bắn đạn thật đạt 29 điểm, đơn vị thưởng cho 3 ngày phép, cùng một người bạn rời khỏi đơn vị trong đêm, về đến nhà chỉ kịp trình giấy phép cho bố và lấy xe đạp vượt trên chục cây số đến bày tỏ tình cảm và được đón nhận. Có điều, chỉ vài tháng sau, tôi nhận được bức thư khá dài, nói gần nói xa rồi cô xin được nhận tôi làm anh trai. Cô còn kết thúc bức thư bằng một câu thơ được viết khá nắn nót:


Xa rồi, xa mãi, có khi xa không thấy
Nhưng
Nhớ rồi, nhớ mãi, nhớ không quên
Tôi như từ trên cây rơi xuống. Có lẽ đó là những phút giây đấu tranh, day dứt dữ dội nhất đời tôi. Liệu có phải vì bố mẹ cô không cho cô, người con gái có đạo yêu một người ngoại đạo (hơn 90% dân số huyện tôi theo đạo Thiên chúa) hay vì mình sắp ra tiền tuyến? Hay có người con trai nào đã chinh phục được trái tim nàng? Chịu, tôi không thể trả lời những câu hỏi của chính mình. Tôi đã trút sự hẫng hụt, những nỗi niềm của mình vào những dòng văn xuôi xuống hàng nhiều lần, dài hơn hai trang, gửi lại cho nàng.

Đợt nghỉ phép trước lúc đi B mà tôi đã nói ở trên, dẫu biết là không chỉ có một người con gái khác đang săn đón, muốn được tiễn đưa chu đáo, tôi vẫn quyết lên đường với mối tình đầu đã tuyệt. Thế nhưng, suốt chặng đường hành quân vào Nam, tôi vẫn mang tấm hình ấy, vẫn viết những dòng ngẩn ngơ về người con gái ấy. Tôi cũng chẳng có thông tin gì về cô. Cho tới một năm sau tôi mới gặp người bạn học cùng Trường và được biết là cô đã trốn gia đình để gia nhập quân đội và đang là diễn viên một đoàn văn công phục vụ trên đường mòn Hồ Chí Minh...

Những dòng ghi ngày 13.2.1971, tại bức thư không gửi thứ nhất của liệt sỹ Vũ Xuân, tôi đã đọc được nhiều trạng thái tình cảm của anh, trong đó anh có trích dẫn 2 câu thơ:

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm nào dễ mấy ai quên
Sao lạ vậy kìa, có khác nhau nhiều lắm đâu. Anh Xuân ơi, nếu không vì nghĩa vụ thiêng liêng của tuổi trẻ lúc đó là xông ra chiến trường, có lẽ anh, tôi và bao đồng chí khác không phải day dứt, nhớ thương đến quặn lòng như vậy. Sao mà suy nghĩ của anh lại phản ánh đúng đắn, đầy đủ đến thế - những suy nghĩ chung của thế hệ trẻ lúc đó: “Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai là trách nhiệm của chúng mình, của thế hệ thanh niên đang sống và chiến đấu chống Mỹ này. Không thể kéo dài và dây dưa được nữa. Máu của chúng ta đã đổ nhiều rồi. Chúng ta không thể ngồi yên”. Anh còn nhắn gửi tới các thế hệ mai sau: “Tôi chỉ muốn một câu nói được vang lên bên tai thế hệ sau là: Đừng làm hoen ố máu của những người đi trước...”.

Tiếp theo nhật ký của các liệt sỹ Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Nhật ký Vũ Xuânlà một trong những di vật quý phản ánh trung thực, rõ nét những suy nghĩ, tình cảm và những trải nghiệm của không chỉ bản thân các liệt sỹ mà còn của đồng chí, đồng đội, của cả dân tộc trong giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước. Những dòng ghi lại trên đây chỉ như những nén tâm nhang tưởng nhớ liệt sỹ Vũ Xuân và cũng là để tôi trải lòng nhân dịp kỷ niệm 38 năm ngày chúng tôi rời miền Bắc thân yêu lên đường nghe theo tiếng gọi của miền Nam ruột thịt, chỉ với mục đích như anh Vũ Xuân và cả dân tộc ở thời điểm đó là:“Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai”.
___________

* Nhật ký Vũ Xuân, NXB Quân đội nhân dân, 2005

Nguyễn Viết Lểnh
Ủy viên Thường trực UB Văn hóa, Giáo dục, TN, TN và NĐ

Kỳ sau: Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân
http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 1) - Thái Nguyên đất mẹ

Góc phố này con đường này thật quen thuộc. Cả dòng sông và Cầu Gia Bệnh nơi hứng chịu biết bao bom đạn, nơi hàng trăm người Thái Nguyên đổ máu trong một ngày oanh tạc ác liệt của máy bay Mỹ cách đây hơn 40 năm.

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 2) - Tiền tuyến gọi

Vậy là Vũ Xuân chàng trai trẻ đã nhập vào đoàn quân ra trận, hành trang của người chiến sĩ là nỗi nhớ quê hương, cha mẹ, bè bạn, anh em, là những trưa hè cắp sách đến trường, là những chiều thu tím ngắt đôi bờ sông Cầu, những bụi khói phun ra từ lò cao gang thép đó là ngày 3/7/1963

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 3) - Miền đất lửa

Vũ Xuân và bao thanh niên Việt Bắc đã về với tuyến đường Quảng Trị, về phía quân thù mà mỗi bước đi là gian khổ, khốc liệt tăng lên

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 4) - Phía tây Trường Sơn

Những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ 20, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên chiến trường Miền Nam, lào và Campuchia đã gặp phải những thất bại nặng nề, trên chiến trường bộ đội Việt Nam và Lào đã phối hợp đập tan nhiều cuộc hành quân càn quét qui mô của địch.

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 5) - Trên đất nước Ăngko

Ba nước Campuchia, Lào, Việt Nam, trong từng giai đoạn, năm 1959, miền bắc Xã hội chủ nghĩa mở đường Trường Sơn chi viện sức người sức của cho miền Nam ruột thịt, nhiều bình đoàn đã hành quân qua đất Bà Sơn.

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 6) - Sông nước Cửu Long nơi anh ngã xuống

Mảnh đất tận cùng tổ quốc mới được hình thành và phát triển, 5, 6 thế kỷ nay trải qua bao thăng trầm đắp đổi, đến hôm nay nhờ sự hy sinh đóng góp của bao lớp người Việt Nam, đã gìn giữ, đã xây dựng, đã có một diện mạo, mà thời các chiến sĩ bảo vệ thời thế hệ cũ của Vũ Xuân chắc chắn không hình dung tươi đẹp đến nhường này.

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 7) - Nghĩa tình người ở lại

Trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp chống Mỹ, lớp lớp các thế hệ thanh niên đã lên đường cầm súng làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, trong hai cuộc chiến ấy đã có nhiều thanh niên nhiều tấm gương anh dũng ngã xuống, máu của các anh đã thấm từng tấc đất quê hương

http://www.cuuhvlq2.tk
      
OLD
OLD Developer

Cấp bậc: Developer

Giới tính : Nam

Bài viết : 750

Danh vọng : 1243

Uy tín : 16

Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân (tập 8 ) - Quê hương nghĩa nặng tình sâu

Một dải non sông gấm vóc đã thu về một mối, đất nước thanh bình sau những bom đạn hy sinh mất mát đau thương, độc lập tự do gắn liền với cơm no áo ấm xã hội dân chủ phồn thịnh văn minh máu đào chiến sĩ đổ xuống cho mảnh đất này, cùng với một kỳ vọng đất nước vững bền

http://www.cuuhvlq2.tk
      
LQ2
LQ2 Ưu tú

Cấp bậc: Ưu tú

Giới tính : Nam

Bài viết : 547

Danh vọng : 1176

Uy tín : 51

Tận nghĩa với đồng đội đã hy sinh

Nhân dịp Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn "Nhật ký Vũ Xuân", chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc người đã gìn giữ cuốn nhật ký quý giá này suốt hơn 30 năm và một mình đưa hài cốt liệt sĩ Vũ Xuân về quê mẹ Thái Nguyên. Anh là một tấm gương mẫu mực, tận nghĩa với đồng đội.

Những dòng lưu bút của liệt sỹ Vũ Xuân 28_daita490
Đại tá Đỗ Hà Thái, người gìn giữ cuốn nhật ký của liệt sĩ Vũ Xuân
và một mình đưa hài cốt liệt sĩ về quê mẹ ở Thái Nguyên.
Tôi đã tìm về chiến trường xưa, nơi anh chỉ huy đơn vị chiến đấu và anh dũng ngã xuống; đã đến nơi anh nằm lại sáu năm trời trước khi trở về quê mẹ, đã gặp những đồng đội thân yêu của anh cùng những giọt nước mắt mặn chát.

Giữa những miệt vườn thơm ngát hoa trái, những cánh rừng tràm bát ngát vi vu, giữa những dòng kênh chằng chịt dọc ngang của mảnh đất miền Tây Nam Bộ mênh mang mà ngoan cường này, tôi vẫn tưởng như anh ở đâu đó bên mình cùng đồng đội và người dân nơi đây.

Anh là Vũ Xuân, hay còn gọi là Tư Xuân, Huế Xuân - cách gọi trìu mến của đồng bào Nam Bộ, sinh ngày 25/4/1946 tại thành phố Thái Nguyên nổi tiếng về gang thép và hương vị của chè. Sau mười năm đèn sách với bao dự định, ước mơ, ngày 3/7/1963 anh lên đường nhập ngũ, để lại bao kỷ niệm tuổi thơ trong sáng và nhọc nhằn “áo mặc lại của anh”, “thùng kem vẹo bên sườn”, “những gánh củi lặc lè không đủ sắm đồng bánh chưng ngày tết”... cùng lứa bạn tinh nghịch, thông minh. Anh lên đường với ước nguyện góp phần cùng đồng đội: “Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai là trách nhiệm của chúng mình, của thế hệ thanh niên đang sống và chiến đấu chống Mỹ này. Không thể kéo dài và dây dưa được nữa. Máu chúng ta đã đổ nhiều rồi. Chúng ta không thể ngồi yên”...

Hơn mười năm quân ngũ, Vũ Xuân đã thực hiện ba cuộc hành quân, vượt lên bao bom đạn của kẻ thù để vào Nam đánh giặc. Cuốn nhật ký quý giá của anh mà chúng ta có được hôm nay ghi lại những tháng ngày hào hùng của hai trong ba cuộc hành quân đó, đặc biệt là cuộc hành quân thứ ba, vượt hơn hai nghìn cây số đến tận mảnh đất cực Nam của Tổ quốc và chiến đấu trong đội hình Đoàn 6 pháo binh. “Gần 6 tháng kể từ ngày xuất phát. Vẫn chưa đến đích. Thái Nguyên - Sơn Tây - Hà Nội - Vinh - Hà Tĩnh - Quảng Bình - Xẻ dọc Trường Sơn qua Lào - Stung Treng - Crachiê - Công Pông Chàm - Công Pông Chnăng - Căm Pốt. Chặng đường tiếp: Tà Keo - Châu Đốc - U Minh Thượng... Đường đi còn dài dặc, ngút ngàn...”.Tôi có may mắn cũng được hành quân vào Nam đánh giặc giữa những ngày “cả nước lên đường”. Thời gian cuộc hành quân đó gần trùng với cuộc hành quân lần thứ ba của anh (đầu năm 1971). Có điều, tôi chỉ được hành quân trên hai phần ba chặng đường dài dặc, ngút ngàn ấy. Khi đọc những dòng nhật ký của anh, tôi cảm thấy như đã được gặp anh, đã được trò chuyện với anh tại một đỉnh đèo hay một khe sâu nào đó...

Anh hy sinh trong trận đánh đồn Kênh 2 vì những viên đạn bắn thẳng của quân thù. Nơi anh ngã xuống cách lô cốt địch chưa đầy 70 mét. Đồng đội của anh đã kể lại với tôi rằng: “Đồn Kênh 2 ở vị trí rất trống trải lại sát bờ kênh. Quân ta rất khó tiếp cận. Cấp trên biết rõ khó khăn này song vẫn hạ quyết tâm phải “nhổ” bằng được để mở thông con đường tiếp tế trên sông của ta tại ngã ba Di Hạng. Đêm đó, anh cùng Tiểu đoàn trưởng Đinh Huy Tỵ chỉ huy bộ đội vượt kênh, bí mật ém sát đồn. Tang tảng sáng, ta nổ súng. Hai lô cốt của địch bị tiêu diệt nhưng cửa vẫn chưa mở được vì lô cốt thứ ba ngoan cố chống cự. Căm thù dồn nén căm thù vì nhiều chiến sĩ của đơn vị đã ngã xuống, anh ôm B40 bắn thẳng vào lô cốt địch, rồi lại dùng AK bắn tiếp. Một loạt đạn trong lô cốt bắn ra. Anh ngã xuống, không kịp một lời gửi lại”.

Nhớ về người mẹ, người cha kính yêu của mình, trong cuốn nhật ký anh đã viết: “Con thương mẹ nhiều lắm, mẹ của con ơi! Mẹ mong, mẹ chờ thằng con trai của mẹ trở về... Bố ơi! Bao giờ bố cũng muốn thằng con trai của bố sống sao cho khỏi tủi hổ cái kiếp làm người và chắc bố cũng nghĩ rằng nếu chết con sẽ chết cho lẫm liệt, phải thế không bố?”.

Anh đã sống xứng đáng và đã hy sinh lẫm liệt như những lời tâm niệm với người thân. Với thế hệ mai sau, trong những trang cuối cùng của cuốn nhật ký, anh nhắn gửi: “Tôi chỉ muốn một câu nói được vang lên bên tai thế hệ sau là: “Đừng làm hoen ố máu của những người đi trước...”.

Người giữ cuốn nhật ký hơn 30 năm qua là Đại tá Đỗ Hà Thái, hiện là cán bộ Ban Sử, Cục Chính trị Quân khu 9. Anh sinh năm 1950, quê Việt Yên, Bắc Giang. Anh Thái nhập ngũ tháng 5/1967, sau khóa đào tạo cán bộ trung đội, anh vào chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị. Giữa năm 1969 anh được cử ra Hà Tây học lớp “chuyển binh chủng”, tại đây, anh đã gặp Xuân (anh Xuân cũng từ chiến trường ra học). Tháng 4/1970, anh Thái và anh Xuân được điều về Tiểu đoàn 11 (Bộ Tư lệnh Đặc công) để huấn luyện đi B. Đầu năm 1971, Tiểu đoàn 11 mang mật hiệu Đoàn 2279 hành quân vào Nam. Trong cuốn nhật ký, anh Xuân đã viết về cuộc hành quân này là “Nam Tiến lần ba”, một cuộc hành quân dài nhất, gian truân nhất trong cuộc đời quân ngũ của anh.

Đúng hẹn, chiều ngày 24/8/2005, tôi có mặt tại Cần Thơ. Anh em gặp nhau tay bắt mặt mừng. Cũng xin nói thêm, gần trọn cuộc đời quân ngũ của mình (hơn 35 năm) anh Thái gắn bó với miền Tây Nam Bộ. Vợ anh là chị Nguyễn Thị Trường, quê Long Mỹ, Hậu Giang. Cơ ngơi chính của anh tại đây, cũng miệt vườn, ao chuôm, ghe xuồng như một người dân miền Tây Nam Bộ thực thụ. Các con anh đều đã trưởng thành, anh đã có một cháu nội. Lần nào gặp anh tôi cũng đùa vui: “Trong anh chỉ có một phần Bắc, còn lại chín phần Nam”. Anh cười sửa lại: “Không! Từng phút, từng giây tôi luôn là người của hai quê nội, ngoại”.

“Anh Vũ Xuân hy sinh ngày 13/5/1974, trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng gần một năm” - Anh Thái bắt đầu kể, giọng trầm hẳn - “Khi đó anh là chính trị viên Tiểu đoàn 2311, Đảng ủy viên Đoàn 6 pháo binh, còn tôi là cán bộ quân lực của Đoàn 6. Tôi có cuốn nhật ký của anh Xuân là do Tiểu đoàn 2311 đã chuyển tư trang của anh về cơ quan Đoàn 6. Thi hài anh được đưa về an táng tại Nghĩa trang Kênh Hãng. Tôi có ý định đưa hài cốt anh Xuân về quê ngay sau giải phóng miền Nam. Năm 1976, tôi về thăm gia đình tại Việt Yên, Bắc Giang. Nghỉ được vài ngày tôi ngược lên Thái Nguyên, tìm về nhà anh Xuân. Cuộc gặp gỡ rất cảm động. Bố mẹ anh Xuân chỉ tâm niệm một điều: được đón anh Xuân về quê nhà. Trong thời gian này, do điều kiện chiến đấu ở biên giới không cho phép, tôi chưa thực hiện được ý định mà mình đang nung nấu. Sau cuộc chiến, tôi quyết định nghỉ phép về Nam thăm vợ con đồng thời quyết tâm thực hiện ý định đưa anh Xuân về lại quê nhà sau khi hết phép. Do thời gian nghỉ phép quá ngắn, tôi mua luôn vé máy bay khứ hồi và xếp lịch chi tiết đến từng ngày.

Ngày 10/5/1980, từ nhà (Long Mỹ, Cần Thơ) tôi chèo xuồng về Nghĩa trang Kênh Hãng (Gò Quao, Kiên Giang). Ngày ấy chưa có xuồng máy nên đi khá lâu, phải hơn hai tiếng đồng hồ mới tới nơi. Việc đầu tiên, tôi ra thăm mộ anh Xuân. Nghĩa trang Kênh Hãng được đặt ở vị trí thấp, sát đồng, bởi vậy hàng năm nhân dân địa phương thường đắp đất tôn mộ lên khá cao. Ngày an táng anh Xuân, tôi trồng thêm ở đầu mộ một cây trâm bầu, bây giờ cây trâm bầu đã cao 4, 5 mét. Gặp anh Năm Long, một du kích xã trước đây, người đã từng biết anh Xuân và cùng đơn vị anh Xuân đánh giặc trên sông, tôi mừng quá. Anh Năm Long hứa ngày mai sẽ huy động người giúp tôi bốc mộ. Tôi yên chí, chèo xuồng về, chuẩn bị đầy đủ rượu, nước thơm, nylon, vải đỏ... Sáng hôm sau, ngày 11/5, tôi hối hả chèo xuồng xuống Nghĩa trang Kênh Hãng. Khu vực này dân ở rất thưa, thi thoảng mới có một nóc nhà. Tôi tìm mãi không gặp anh Năm Long (sau này tôi mới rõ, hôm đó anh Năm Long đi họp trên xã, phiên họp đột xuất). Tôi lẳng lặng ra nghĩa trang thắp hương rồi một mình bốc mộ anh Xuân. Lúc đó là 3 giờ chiều. Thấy tôi làm vất vả, các cháu nhỏ chăn trâu gần đó xúm lại giúp đỡ. Do lượng đất trên mộ khá dày nên đến 6 giờ tối ván thiên mới lộ ra. Lúc này, các cháu nhỏ xin phép tôi đánh trâu ra về, tôi cảm ơn các cháu rồi một mình tiếp tục công việc. Khi lật ván thiên lên, huyệt đầy nước. Hình hài anh Xuân teo nhỏ lại song còn khá nguyên vẹn trong ba lớp bọc nylon. Tôi cúi xuống, khẽ khàng bế anh Xuân lên, định đặt anh vào tấm cao su trên bờ. Đột nhiên, phần chân gãy gục xuống do bọc nylon quá nhiều nước. Tôi đành đặt anh Xuân trở lại huyệt, dùng dao rạch hết các lớp nylon rồi cẩn thận bốc từng phần xương một. Thi hài anh Xuân được bọc kỹ trong các lớp nylon lại nằm sâu trong lòng nước lạnh nên phía bả vai phần mềm chưa rữa hết. Một điều hết sức lạ lùng là trái tim anh Xuân hầu như còn nguyên, chỉ hơi teo lại, trông từa tựa quả bình bát. Khi đưa tay vào lồng ngực anh, chạm phải trái tim anh tôi vô cùng sửng sốt. Tôi rửa sạch, nâng trái tim anh trên tay, miết nhẹ, vết miết in hình rất rõ.

Đến 9 giờ tối, tôi mang hài cốt anh Xuân ra kênh cọ rửa từng phần, lần cuối cùng tôi rửa bằng rượu. Gió nổi lên ào ạt. Giữa đồng không mông quạnh, đèn cứ châm lại tắt, tôi đành làm mò. Tôi xếp thứ tự từng phần xương vào nylon rồi đặt trái tim ở giữa, sau đó tôi bọc thêm hai lớp nylon nữa, ngoài cùng tôi bọc vải đỏ. Tôi thắp hương khấn anh “phù hộ cho chuyến về quê thuận buồm xuôi gió” rồi đặt bộ hài cốt vào túi cói, đeo qua người. Bỗng nhiên trời đổ mưa dữ dội, sấm chớp đì đùng, nước mưa táp vào mặt nặng rát. Vừa chèo xuồng tôi vừa lẩm bẩm nói: “Anh Xuân ơi! Chúng mình đi hè. Bom đạn anh em mình chẳng sợ, mưa gió này nghĩa lý gì”.

Về đến nhà đã 2 giờ sáng. Vợ tôi vẫn chong đèn bên mâm cơm, chờ.

Tang tảng sáng, tôi bắt xe đò lên Cần Thơ. Đến Cần Thơ tôi bắt xe tiếp lên Tp.HCM. Vé máy bay đã đặt rồi, không thể chậm trễ. Đến Tp.HCM, tôi ghé vào nghỉ nhờ ở nhà bác Ba Cho, một người bạn cùng hoạt động cách mạng với bố tôi từ trước năm 1945.

Sáng hôm sau, ngày 13/5/1980, đúng ngày giỗ của liệt sĩ Vũ Xuân, tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất, lòng thấp thỏm vô cùng, chỉ sợ người ta không cho lên máy bay. Bộ hài cốt tôi đeo kè kè bên người. May quá, hồi đó Hàng không Việt Nam không kiểm tra ngặt nghèo như bây giờ, hơn thế nhìn thấy tôi quân phục chỉnh tề họ cho đi ngay. Chuyến bay AN26 hôm đó thật đặc biệt. Máy bay cất cánh được vài chục phút, tôi thấy mọi người trên máy bay lao xao. Hỏi tiếp viên hàng không thì được trả lời “Sân bay Gia Lâm thời tiết quá xấu, trời mù không thể hạ cánh được, lệnh của trên máy bay phải trở về sân bay Tân Sơn Nhất”. Gần tới sân bay Tân Sơn Nhất, chúng tôi lại được thông báo: “Thời tiết đã đỡ xấu, máy bay được lệnh bay theo chiếc TU134 vòng qua Lào về sân bay Gia Lâm”. Thường thường từ Tp. HCM ra Hà Nội bay hết 2 giờ, chuyến bay đó dài gần 4 giờ.

Xuống sân bay Gia Lâm, tôi theo xe của Hàng không về Bờ Hồ rồi thuê xích lô về căn hộ Nhà nước cấp cho bố tôi tại khu tập thể Giảng Võ. Bố con gặp nhau được mươi phút, tôi vội vã chia tay ông, thuê xích lô ra ga Hàng Cỏ. Tại đây, tôi tìm mua một chiếc hòm gỗ đỏ, kiểu hòm ngày đó dân ta thường dùng để đựng quần áo rồi đặt bộ hài cốt vào. Tôi tiếp tục thuê xe xích lô ra Bến Nứa rồi đi ôtô khách về Thái Nguyên.

Sau nhiều ngày đêm đi lại liên tục, mất ngủ, ăn uống thất thường tôi thấy người đau nhừ, nặng chình chịch. Riêng trí óc thì vẫn tỉnh táo lạ thường. Đến ga Đồng Quang, tôi rẽ vào quán nước ngồi nghỉ, nhân thể chỉnh trang lại quần áo trước khi về nhà anh Xuân. Bà con ở đây vẫn gọi bố mẹ anh Xuân là cụ Tấn. Tôi nhờ mấy người dân về nhắn với gia đình cụ Tấn rằng: “Anh Xuân, anh Thái đã về đến ga Đồng Quang. Gia đình cho người ra đón hai anh về nhé”. Độ mười phút sau, gia đình ra ga rất đông. Ai cũng khóc sụt sùi. Mẹ anh Xuân, khi đó đã già yếu lắm, chạy ra tận ngõ ôm chầm lấy chiếc hòm gỗ đựng hài cốt con trai. Nước mắt tôi đã cạn bởi khóc bao đồng chí, đồng đội đã ngã xuống trong chiến tranh, vậy mà chiều ấy cứ tuôn chảy ròng ròng.

Đó là chiều 13/5/1980. Đúng sáu năm sau ngày Chính trị viên tiểu đoàn Vũ Xuân anh dũng hy sinh”

Nguyễn Tiến Hải
Nguồn : ca.cand.com.vn
      
      

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn

Bạn không có quyền trả lời bài viết
free counters



  • Đoàn Ngọc Khánh

    mobile phone 098 376 5575


    Đỗ Quang Thảo

    mobile phone 090 301 9666


    Nguyễn Văn Của

    mobile phone 090 372 1401


    IP address signature
    Create a forum on Forumotion | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất