Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Lê Quang Khang giải thích: Ba nén nhang thể hiện ý nghĩa là tâm nhang (lòng thành), giới nhang (theo lời răn dạy của phật thánh tổ đường) và định nhang (tuyệt đối không thay lòng đổi dạ).
Khi lập bát hương, gia chủ lên chùa lễ Phật xin cốt bát hương. Cốt bát hương gồm có thần chủ viết bằng chữ Hán và một gói thất bảo tức bảy vật báu gồm vàng, bạc, lưu ly, mã não, sa cừ, phục linh và san hô. Nhà bình dân có thể thay gói thất bảo bằng một gói giấy trang kim ngũ sắc. Cốt bát hương đặt sát thành trong bát hương.
- Giải thích của Phật giáo:
- Hỏi: Kính thưa thầy, con thường thấy khi hành lễ quý thầy thường thắp ba nén hương để nguyện hương, nhưng con không hiểu thắp ba nén hương đó có ý nghĩa gì? Xin thầy giải đáp cho con rõ.
Đáp: Thật ra, trong nhà Phật thường lấy những con số để tiêu biểu tượng trưng thôi. Kỳ thật nó không có quan trọng cho lắm. Vả lại, đã nói là tiêu biểu tượng trưng nên người ta có thể dùng bất cứ con số nào mang ý nghĩa siêu thoát cao đẹp, cũng có thể lấy đó làm tiêu biểu được cả. Như con số tám muôn bốn ngàn pháp môn tu, đó cũng là con số tượng trưng. Pháp môn của Phật nói ra là vô lượng vô biên, chớ đâu phải chỉ có giới hạn con số ngần ấy. Nói con số đó để đối trị tám muôn bốn ngàn trần lao phiền não. Phiền não làm gì có con số tám muôn bốn ngàn, mà nó là vô tận không thể nào đếm hết được.
Hoặc giả như các loại xâu chuỗi mà quý tăng ni và Phật tử thường đeo, như chuỗi trường 108 hạt, chuỗi tay 18 hạt v.v… tất cả đó cũng chỉ là những con số tượng trưng thôi. Như xâu chuỗi trường 108 là tượng trưng cho thập bát giới ( lục căn, lục trần, lục thức ) tức 18, rồi đem con số 18 nầy nhân cho 6 món căn bản phiền não ( tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) thành ra con số 108. Người tu theo pháp môn Tịnh độ, thì chư Tổ dạy phải lấy việc trì danh niệm Phật làm chính yếu. Do đó, nên người ta dùng những xâu chuỗi nầy để lần từng hạt làm đơn vị mà niệm Phật.
Mục đích của sự niệm Phật là để dứt trừ phiền não. Mà phiền não có ra là do sự tiếp xúc của căn, trần và thức, rồi kèm theo sự hợp tác làm việc chặt chẽ của 6 món căn bản phiền não. Do đó, mà chúng sanh tạo nghiệp thọ khổ luân chuyển trôi nổi mãi trong tam đồ lục đạo. Muốn dứt trừ những thứ phiền não đó, thì chúng ta phải thu nhiếp sáu căn không cho tiếp xúc với sáu trần. Căn và trần không tiếp xúc với nhau, thì thức cũng không do đâu mà phân biệt. Đồng thời, khi đó, chúng ta phải hết lòng tập trung chú tâm vào câu hiệu Phật. Không để tâm suy nghĩ bất cứ chuyện gì khác. Nhờ đó, mà tâm ta được an định. Tâm An định tức là không có phiền não, mà phiền não không có, thì ngay đó là ta đã được an lạc giải thoát rồi.
Nói thế, để Phật tử thấy rằng, tất cả đều là những con số mang ý nghĩa tiêu biểu tượng trưng thôi. Cũng vậy, thường người ta chỉ thắp một nén hay ba nén hương, chớ người ta không thắp 2 nén hoặc 4 nén, tức là những con số chẳng. Lý do tại sao? Như chúng tôi đã nói, đây chỉ là hình thức tiêu biểu tượng trưng. Vì tượng trưng nên người ta có quyền đặt định ra. Khi ban đầu người nào đó đặt định ra, chỉ thắp ba cây hương, mà không thắp 4 hay 5 cây, thế là mọi người cứ thế làm theo mà không cần phải giải thích tượng trưng cho ý nghĩa gì.
Đó là lý do mà Phật tử thắc mắc đã hỏi. Với con số 3 nầy, thú thật, tôi chưa thấy kinh sách nào giải thích rõ ràng. Đã nói là tượng trưng, thì ai cũng có thể nêu ra con số để tượng trưng đươc cả. Tuy nhiên, con số nào mà chúng ta thấy mang ý nghĩa tiêu biểu tượng trưng sâu sắc nhứt thì chúng ta có thể lấy con số đó để làm tiêu biểu. Theo chúng tôi, thì lấy con số “Tam vô lậu học” để tượng trưng thì có lẽ hợp lý xác đáng hơn. Vì đây là ba môn học rất hệ trọng trong giáo lý đạo Phật.
Có thể nói, toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo đều được xây dựng trên ba môn học giải thoát nầy. Rời ba môn học nầy ra, thì không còn là giáo điển của Phật giáo nữa. Lại nữa, khi niệm bài dâng hương, thì người ta thường niệm “Ngũ phần pháp thân hương” mà mở đầu là “Giới hương, Định hương và Huệ hương”, rồi mới Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương. Như vậy, vẫn lấy Tam vô lậu học đứng đầu. Chúng tôi thiết nghĩ, có lẽ vì xét thấy tầm mức quan trọng của ba môn học đó như thế, nên người xưa mới lấy con số 3 đó, để làm tiêu biểu khi dâng lên ba nén hương để cúng Phật vậy.
Theo http://www.quangminh.org.au
- Theo "Bách khoa tri thức":
- Hương - Cách thắp hương và ý nghĩa
Hương là thơm, chất thơm để cùng dường Tam Bảo, cúng thần linh nơi chùa, đình, đến, miếu và các bàn thờ gia tiên...
Người ta thường cúng dường chư Phật bằng ba thứ hương: Mạt hương (hương bột), Thiêu hương (hương đạt), Đồ hương (hương bôi lên cây nhang). Ngoài những thứ hương thông thường còn những danh hương quý được đem cúng dường nơi Phật đài như: Chiên đàn hương (hương này còn diệt trừ ô trước), trầm hương, đâu lâu ba hương (một thứ có bên Thiên Trúc, mùi rất thơm), tất lực ca hương (một thứ đinh hương ở Thiên Trúc, mùi rất thơm, cũng dùng để ăn, làm thuốc).
Đứng về mặt ý nghĩa, đốt hương nến (nói chung - có lửa khói) là một biểu hiện mong muốn tiếp xúc với thần linh. Vào thời nguyên thủy, khi con người đã có tư duy, họ muốn giải thích những hiện tượng tự nhiên và xã hội có liên quan tới cuộc sống thường nhật. Từ sự bế tắc do khả năng nhận thức có hạn nên nảy sinh thần linh. Cư dân của một số tộc người cũng sớm định vị cho thần linh là ở tầng trên. Con người cũng sâm cho rằng thần linh đã trực tiếp chi phối tới nhiều mặt của đời sống chính mình, và họ tâm cách thông linh (giao tiếp với thần). Không một cách nào có thể giúp con người bay lên trên cao. Cho tới khi tìm thấy lửa, dần dần con người nhận thấy, khi đốt lửa thì bao giờ khói cũng bay lên. Như thế, bằng thực tế phát triển lịch sử xã hội, bằng tri giác đi tới đúc kết, con người sử dụng lửa để giao tiếp với thần.
Biết bao lễ hội mang tính cổ truyền bắt nguồn từ thời nguyên thủy được diễn ra quanh đống lữa. Những điệu múa trầm hùng, làm rung động cả núi rừng châu Phi của các nam nữ, nhất là khi các bộ phận sinh sôi và nuôi dưỡng được "nhảy múa" mạnh mẽ theo những nhịp nhất định, thì đó là những hình ảnh, động tác mà con người muốn thông qua lửa khói để chuyển tải lên tầng trên, nhằm nhắc nhở thần linh: hãy theo sự gợi ý của con người mà thực hiện nhiệm vụ, cho âm dương đối đãi, cây trồng sinh sôi... Đó là chưa kể tới, trong đêm tối, ngọn lửa bập bùng hình bóng của con người, muôn loài, cây cỏ lay động như cùng có hồn, dễ hòa nhập và người ta có cảm giác gần gũi hơn với thế giới bên kia. Chúng ta hiện vẫn còn gặp nhiễu lễ hội của người thiểu số Việt Nam diễn ra quanh đống lửa. Xã hội ngày một văn minh, lòng thành kính với tầng trên được thể hiện qua nhiều khía cạnh, song hầu như phải có lửa khói, và, ở một chừng mực nào đó được hội tụ vào hương nến. Hương thắp vừa đạt được ý nguyện tâm linh dâng mùi thơm và chuyển lời cầu khẩn lên các thần, vừa để biểu hiện chính tâm hướng tới điều thiện. Vì thế người Việt sẽ rất áy náy khi đi lễ mà không có hương đèn. Song, cũng từ rất sớm, người ta đã hiểu cách thắp hương sao cho biểu hiện được tâm nguyện là chính. Người Việt xưa tối kỵ thắp cả bó hương rồi cắm cả lên bàn thờ, vì khói xông ngột ngạt thường gắn với sự ô trọc - thất kính thiếu văn hóa. Tùy theo nhu cầu của việc đi lễ mà có số hương thắp khác nhau. Do tấm lòng thành tín trong sạch dâng lên Phật và thân, gọi là tâm hương, biểu hiện trong việc thắp hương là một nén, vì Tâm hương là ngũ hương gồm:
+ Giới hương: Do giữ được giới (những điều quy định) mà thơm.
+ Định hương: Do từ sự thiền định (tâm không tán loạn, yên trụ vào đạo lý, thoát khỏi sự ràng buộc của trần thê) mà thơm.
+ Tuệ Hương: Do từ trí tuệ mà thơm (sáng suốt, thông hiểu sự và lý, dứt mê lầm...)
+ Giải thoát hương: Do từ sự dứt phiền não mà thơm (lìa khỏi sự trói buộc của nghiệp mê lầm, thoát ra ngoài sự khổ của cuộc đời trần tục).
+ Giải thoát tra kiến hương: Do tự biết mình thành đạo mà thơm.
Nhiều khi chúng sinh đi lễ, đã thắp ba nén hương, đây là một biểu hiện về nguyện cầu sự thay đổi trong xu hướng tốt lành. Tạm hiểu số ba là số lẻ, lẻ thì động, dẫn tới biến đổi và phát triển.
Cũng có khi số hương được thắp nhiều hơn như theo tám hướng, thập phương, ngũ dinh hay theo vía (bảy và chín).
Suy cho cùng hương là thơm. Hương và lửa là biểu hiện sự sùng kính trong mối giao tiếp với thần linh.
Nguồn : http://www.bachkhoatrithuc.vn